head

Friday, September 02, 2005

Cái Gạch Nối Trong Chữ Việt

Cái Gạch Nối Trong Chữ Việt
-------------------------------------------

1. Cái gạch nối

Trong chữ Việt, cái gạch nối dùng dể kết hợp những thành tố viết rời của một từ gồm nhiều âm tiết. Nếu viết riêng rẽ thì những âm tiết nói trên sẽ có một nghia khác, tức là nghia riêng biệt của từng âm tiết. Sau dây là một vài thí dụ:

- Độc có nghia là một, có số luợng chỉ một mà thôi. Lập có nghia là dứng thẳng. Ghép lại, dộc-lập có nghia: 1. Tự mình sống, không dựa vào nguời khác. Sống dộc-lập.

2. (Nuớc hoặc dân tộc) có chủ quyền. Nền dộc-lập dân tộc.

- Bà là nguời dàn bà thuộc thế hệ sanh ra cha hoặc mẹ ta. Con là nguời thuộc thế hệ mà ta sanh ra. Ghép lại, bà-con có nghia là thân quyến, nguời có quan hệ họ hàng. Một nguời bà con xa.

- Cay là có vị nhu khi an ớt, an tiêu, an gừng hoặc khi uống ruợụ Đắng là có vị nhu khi an trái khổ qua, trái bồ hòn, mật cá hoặc uống thuốc bắc. Ghép lại cay- dắng (hay dắng-cay) có nghia là dau khổ, xót xa. Thất bại cayđắng.

Nhu vậy, ta thấy cái gạch nối có một vai trò rất quan trọng. Nó dùng dể phân biệt từ don với từ ghép. Từ cuối thế kỷ 19 và trong những thập niên dầu của thế kỷ 20 này, theo ngữ pháp, ta dùng cái gạch nối dối với những từ ghép, mục dích là dể câu van duợc rõ nghia. Trong học duờng, thời bấy giờ, dối với những từ ghép, thiếu cái gạch nối là một lỗi chánh tả tuong tự nhu các lỗi chánh tả khác: c với t (các/cát), ch với tr (chuong/truong), d với gi (dang/giang), dấu hỏi với dấu ngã...

2. Ngữ pháp cú

Qui tắc về việc sử dụng cái gạch nối trong tiếng Việt dã có từ cuối thế kỷ 19, thời chữ quốc ngữ mới duợc hình thành. Nhà bác học, cung là nhà ngữ học Truong Vinh Ký (1839 - 1898) dã viết: "Để tránh lẫn lộn từ don và từ dôi, từ kép, chúng tôi dã chấp nhận, trong các từ diển, van phạm và các ấn bản khác của chúng tôi, dùng gạch nối dể xác dịnh từ kép và ghép dôi một số mẫu âm khác của chúng tôi, dùng gạch nối dể xác dịnh từ kép và ghép dôi một số mẫu âm làm cho âm cuối dễ nghe nhu líu-lo, dangđẳng." Gần dây, dựa theo các sách dã xuất bản, chúng tôi ghi nhận, trên những sách in truớc nam 1975, các tác giả vẫn còn dùng cái gạch nối dối với những từ ghép.

Sự kiện này cho biết, vào cuối thế kỷ 19 và hon nửa dầu thế kỷ 20 này, những nguời làm giáo dục và van học dã sử dụng cái gạch nối trong những truờng hợp sau dây:

2.1 Từ ghép Hán-Việt: tựđo, dộc-lập, ngôn-ngữ-học, thuận-thinh- âm, hồng- thập-tự, tiềm-thủyđỉnh, hàng-không-mẫu-hạm, thủy-quân-lục- chiến.

2.2 Từ ghép thuần Việt:

- Từ kép, cung gọi là từ láy, gồm một âm có nghia với một âm không nghia dể cho xuôi tai: bạc-bẻo, dễđàng, dầyđặn, khỏe-khoắn, líu-lo, mặn- mà, nhỏ- nhắn, nở-nang, sắc-sảo, vững-vàng, xót-xa.

- Từ kép gồm hai âm không có nghia riêng, nhung khi ghép lại, hai âm tạo thành một từ có nghia chung: bâng-khuâng, hững-hờ, lai-láng, mênh-mông, mon- mởn, ngậm-ngùi, thênh-thang.

- Từ kép gồm hai câu có nghia riêng: biểnđâu, buớm-ong, cay- dắng, dầy- dủ, mắm-muối, mệt-mỏi, phẳng-lặng, vàng-thau.

- Từ kép gồm hai âm dồng nghia: chợ-búa, do-bẩn, du-thừa, dau- ốm, gầy- ốm, hình-ảnh, lẫn-lộn, lựa-chọn, mập-béo, nhỏ-bé, nông-cạn, ôđù, sắc-bén, thổi- nấu, thuong-yêu, to-lớn, roi-rớt.

- Từ kép gồm hai từ dồng âm: chậm-chậm, dờiđời, hàng-hàng, hay-hay, hiu-hiu, lớp-lớp, mãi-mãi, ngày-ngày, rầu-rầu, xa-xạ..

2.3 Nhân danh (tên tục, tên hiệu): Nguyễnđu, Tố-Nhu, Truong-Vinh- Ký, Đào- Duy-Anh, Duong-Quảng-Hàm, Trần-Trọng-Kim, Nguyễn-Hiến-Lê, Vuong-Hồng- Sển.

2.4 Địa danh: Việt-Nam, Hoa-Kỳ.

2.5 Danh từ riêng phiên âm: Hoa-Thịnh-Đốn, Mạc-Tu-Khoa.

2.6 Từ có quan hệ qua lại với nhau: từ diển Hán-Việt, bang giao Mỹ- Việt, luật hỏi-ngã, thi van cổ-kim, van hóa Đông-Tây, phát triển khoa-học- kỹ-thuật.

2.7 Danh từ chung phiên âm: cát-xết, viđê-ọ Đối với một số tên chung phiên âm dã hoàn toàn Việt hóa, ta bỏ luôn cái gạch nối: cà phê, cà vạt, câu lạc bộ, dô la, ga ra, nóc ao, ra da, ra gu, ti vi, xích lô.

2.8 Một số từ ngữ mà các âm tiết không thể tách rời: chợ-nhà- lồng, khô-cá- chỉ- vàng, tại-vì-bởi.

2.9 Giữa các con số chỉ ngày tháng nam : ngày 1-1-1998

2.10 Giữa hai nhóm số chỉ nam dể nói lên khoảng cách thời gian: 1975 - 1998.

Trên dây là những qui tắc trong việc sử dụng cái gạch nối khoảng truớc nam 1975. Tuy nhiên cung phải ghi nhận là việc dùng cái gạch nối này của những nguời làm van hóa chua thống nhất. Có tác giả áp dụng triệt dể các nguyên tắc, nhung cung có tác giả chỉ áp dụng một cách dại khái hay tuong dối, tùy theo quan niệm của mỗi cá nhân. Thậm chí, có truờng hợp cùng một tác giả mà trong một bài viết, dối với các từ ghép (cả Hán-Việt lẫn thuần Việt) có lúc dùng cái gạch nối, có lúc không.

Xin trích dẫn một doạn trong lời tựa "Vì sao có sách nàỷ" của cuốn "Giản-yếu Hán-Việt Từđiển" của nhà học giả tiền bối Đàođuy-Anh, viết ngày 1-3-1931, Nxb Minh Tân, Paris, in lại nam 1949:

Vô luận nuớc nào, van-tự dã phát dạt dến một trình dộ khá khá dều phải có những sách Tựđiển hoặc Từđiển dể làm tiêu-chuẩn và can-cứ cho nguời học. Quốc-van của ta ngày nay dã có chiều phát dạt, thế mà ta chua thấy có một bộ sách Tựđiển hoặc Từđiển nào, dó thực là một diều khuyếtđiểm lớn mà ai cung phải công-nhận.

Trong doạn van trên dây, theo nguyên tắc, những từ in nghiêng phải có cái gạch nối, vì dó là những từ Hán-Việt và từ ghép thuần Việt. Nhung vì sao tác giả không dùng gạch nối? Sự kiện này cho thấy, việc sử dụng cái gạch nối khó dạt dến sự thống nhất nhu trên lý thuyết.

3. Ngữ pháp mới

Khoảng từ nam 1975 cho dến nay:

3.1 Trong nam truờng hợp ghi từ mục 2.1 dến 2.5 trên dây, tuyệt dại số những sách báo xuất bản trong nuớc và tại hải ngoại, ta dã xóa bỏ hẳn cái gạch nối. Sự "cải cách" này dã diễn ra âm thầm. Có phải chang nó dã xuất phát từ một "ngữ pháp bất thành van." Các tác giả tiền bối lần hồi bỏ cái gạch nối. Thế là các tác giả hậu bối cung theo guong.

3.2 Trong nam truờng hợp kế tiếp, từ mục 2.6 dến 2.10, ta vẫn duy trì cái gạch nối.

3.3 Từ ngày trong nuớc và ở hải ngoại hai phuong tiện diện thoại và diện thu (fax) duợc phổ biến, ta dã dùng cái gạch nối dể phân cách các nhóm số của hai hệ thống nàỵ Điện thoại: 714 - 500-4000, Điện thu: 714 - 800-7000.

3.4 Chúng ta thử tìm hiểu xem nguyên nhân nào khiến cho, sau nam 1975, cái gạch nối dã duợc xóa di trong nam truờng hợp từ 2.1 dến 2.5.

Thực tế cho thấy, việc dùng gạch nối ở nam truờng hợp nói trên dã gây một số bất tiện và phiền phức.

- Nguời viết phải bận tâm dến cái gạch nối, mất thời giờ suy nghi, thời giờ viết lên giấy và thời giờ dò lại bài xem có sai sót không?

- Trong ngành ấn loát, nguời dánh máy và nguời sắp chữ phải nhọc công và khổ sở vì cái gạch nối. Truớc kia, trong thời kỳ ngành ấn loát nuớc ta còn lạc hậu, việc sắp chữ dể làm bản in "typo" duợc thực hiện theo lối thủ công. Trong công việc sắp chữ, thêm một cái gạch nối kể nhu thêm một con chữ.

Việc xóa bỏ gạch nối không ảnh huởng trầm trọng dến câu van về mặt ngữ nghia. Nguời dọc bình thuờng dễ dàng phân biệt từ don và từ ghép. Cả nguời viết và nguời dọc dã mặc nhiên hiểu ngầm là các từ ghép Hán- Việt và thuần Việt luôn luôn duợc nối với nhau bằng cái "gạch nối vô hình." Ta dã "hi sinh" cái hợp lý dể dổi lấy cái thực dụng, cái giản tiện. Ngày truớc, có cái gạch nối là hợp lý. Ngày nay không có cái gạch nối cung hợp lý. Ngữ pháp chung qui chỉ là một qui uớc, một sự giao uớc giữa nguời viết và nguời dọc.

4. Viết dính liền

Từ xua tới nay, cả ở trong nuớc lẫn ở hải ngoại, một số nguời có xu huớng viết dính các âm tiết ở hai truờng hợp 2.1 và 2.2: tựdo, vữngvàng, ngônngữhọc, kimtựtháp, hàngkhôngmẫuhạm. Giải pháp này là dể thay thế cái gạch nối dối với các từ ghép. Tuy nhiên, việc cải cách này gặp một trở ngại khác và xét không ổn nên không duợc huởng ứng. Lý do là những từ viết dính liền có thể sẽ bị dọc và và bị hiểu sai lệch.

4.1 Những từ ghép dính liền có thể duợc dọc một cách khác:

Bình an viết bìnhan có thể dọc là bì nhan hoặc bìn han

Giáo án viết giáoán có thể dọc là giá oán hoặc gi áo án

Phátââm -- phát âm -- phá tâm

Phát hành -- pháth ành -- phá thành

Tình ái -- tìn hái -- tì nhái -- tìn hái

4.2 Những từ vốn chỉ có một âm nay có thể duợc dọc tách rời thành hai âm:

Thúy có thể dọc là thú y

Khối -- kho ái hoặc khó ai

5. Kết

Những nguời chủ truong duy trì cái gạch nối trong những từ ghép Hán-Việt và thuần Việt và những nguời chủ truong viết dính liền những từ ghép lại này dều có lý. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, dối với bất cứ ngôn ngữ nào cung vậy, nguời ta không thể ép nó vào một khuôn mẫu hợp lý duợc. Nói và viết, dúng hay sai là một thói quen, lập di lập lại qua nhiều thế hệ. Mà thói quen xuất phát từ sự thực dụng. Và một khi dã thông dụng thì mọi nguời dều phải theo. Khó mà dem môn lý luận ra dể phê phán duợc. Trừ phi, có diểm nào quá vô lý, nếu muốn sửa dổi thì phải có sự dồng thuận của số dông.

Phụng Nghi

http://p083.ezboard.com/fvietthingstailieu.showMessage?topicID=35.topic

No comments:

Post a Comment