head

Friday, September 02, 2005

Tình yêu & Hôn nhân

Tình yêu & Hôn nhân«
on: Aug 12, 2004, 12:04:02 PM »

---------------------------------------------------------
- Tình yêu là bất tử , chỉ có người yêu là thay đổi.

- Trữ tình : yêu 1 lúc nhiều người.

- Vô tình : tình yêu vô (trúng mánh)

- Tình hình : tình được mai mối giới thiệu bằng hình ảnh

- Tình báo : tình được quen qua câu lạc bộ bốn phương trên báo

- Tình tứ : tình yêu đến lần thứ tư

- Bạc tình : tiền dùng để vun đắp tình yêu , hôn nhân

- Tính tình : Tính toán cho cuộc tình đôi ta

- Cố tình : tình đã đi vào quá khứ

- Tình tang : đi đưa tang người yêu vừa mất

- Chung tình : nhiều người sài chung 1 người

- Tình cảm : đau ốm thất thểu vì tình yêu

- Tình trường : trung tâm tư vấn tình yêu hôn nhân gia đình


- Hôn nhân luôn tặng bạn một đặc ân : chỉ có ai có nó mới có thể ly dị được.

- Hôn 1 người gọi là hôn nhân

- Hôn con vật cưng gọi là hôn thú

- Lâu quá chưa hôn được gọi là hôn ước

- Mới hôn xong gọi là tân hôn

- Hôn thêm 1 chút nữa là tái hôn

- Hôn 2 lần gọi là song hôn

- Hôn sơ sơ gọi là ngoại hôn

- Hôn ké gọi là phụ hôn

- Được vua hôn gọi là hoàng hôn

- Hôn từ giã gọi là từ hôn

- Hôn có giấy phép gọi là hôn lễ

- Thích được hôn gọi là hôn mê

- Hôn người lính gọi là hôn quân

- Hôn giữa chừng bị xô ra gọi là ly hôn

- Không cho hôn mà cũng hôn gọi là cưỡng hôn

Tình yêu & Hôn nhân

Cái Gạch Nối Trong Chữ Việt

Cái Gạch Nối Trong Chữ Việt
-------------------------------------------

1. Cái gạch nối

Trong chữ Việt, cái gạch nối dùng dể kết hợp những thành tố viết rời của một từ gồm nhiều âm tiết. Nếu viết riêng rẽ thì những âm tiết nói trên sẽ có một nghia khác, tức là nghia riêng biệt của từng âm tiết. Sau dây là một vài thí dụ:

- Độc có nghia là một, có số luợng chỉ một mà thôi. Lập có nghia là dứng thẳng. Ghép lại, dộc-lập có nghia: 1. Tự mình sống, không dựa vào nguời khác. Sống dộc-lập.

2. (Nuớc hoặc dân tộc) có chủ quyền. Nền dộc-lập dân tộc.

- Bà là nguời dàn bà thuộc thế hệ sanh ra cha hoặc mẹ ta. Con là nguời thuộc thế hệ mà ta sanh ra. Ghép lại, bà-con có nghia là thân quyến, nguời có quan hệ họ hàng. Một nguời bà con xa.

- Cay là có vị nhu khi an ớt, an tiêu, an gừng hoặc khi uống ruợụ Đắng là có vị nhu khi an trái khổ qua, trái bồ hòn, mật cá hoặc uống thuốc bắc. Ghép lại cay- dắng (hay dắng-cay) có nghia là dau khổ, xót xa. Thất bại cayđắng.

Nhu vậy, ta thấy cái gạch nối có một vai trò rất quan trọng. Nó dùng dể phân biệt từ don với từ ghép. Từ cuối thế kỷ 19 và trong những thập niên dầu của thế kỷ 20 này, theo ngữ pháp, ta dùng cái gạch nối dối với những từ ghép, mục dích là dể câu van duợc rõ nghia. Trong học duờng, thời bấy giờ, dối với những từ ghép, thiếu cái gạch nối là một lỗi chánh tả tuong tự nhu các lỗi chánh tả khác: c với t (các/cát), ch với tr (chuong/truong), d với gi (dang/giang), dấu hỏi với dấu ngã...

2. Ngữ pháp cú

Qui tắc về việc sử dụng cái gạch nối trong tiếng Việt dã có từ cuối thế kỷ 19, thời chữ quốc ngữ mới duợc hình thành. Nhà bác học, cung là nhà ngữ học Truong Vinh Ký (1839 - 1898) dã viết: "Để tránh lẫn lộn từ don và từ dôi, từ kép, chúng tôi dã chấp nhận, trong các từ diển, van phạm và các ấn bản khác của chúng tôi, dùng gạch nối dể xác dịnh từ kép và ghép dôi một số mẫu âm khác của chúng tôi, dùng gạch nối dể xác dịnh từ kép và ghép dôi một số mẫu âm làm cho âm cuối dễ nghe nhu líu-lo, dangđẳng." Gần dây, dựa theo các sách dã xuất bản, chúng tôi ghi nhận, trên những sách in truớc nam 1975, các tác giả vẫn còn dùng cái gạch nối dối với những từ ghép.

Sự kiện này cho biết, vào cuối thế kỷ 19 và hon nửa dầu thế kỷ 20 này, những nguời làm giáo dục và van học dã sử dụng cái gạch nối trong những truờng hợp sau dây:

2.1 Từ ghép Hán-Việt: tựđo, dộc-lập, ngôn-ngữ-học, thuận-thinh- âm, hồng- thập-tự, tiềm-thủyđỉnh, hàng-không-mẫu-hạm, thủy-quân-lục- chiến.

2.2 Từ ghép thuần Việt:

- Từ kép, cung gọi là từ láy, gồm một âm có nghia với một âm không nghia dể cho xuôi tai: bạc-bẻo, dễđàng, dầyđặn, khỏe-khoắn, líu-lo, mặn- mà, nhỏ- nhắn, nở-nang, sắc-sảo, vững-vàng, xót-xa.

- Từ kép gồm hai âm không có nghia riêng, nhung khi ghép lại, hai âm tạo thành một từ có nghia chung: bâng-khuâng, hững-hờ, lai-láng, mênh-mông, mon- mởn, ngậm-ngùi, thênh-thang.

- Từ kép gồm hai câu có nghia riêng: biểnđâu, buớm-ong, cay- dắng, dầy- dủ, mắm-muối, mệt-mỏi, phẳng-lặng, vàng-thau.

- Từ kép gồm hai âm dồng nghia: chợ-búa, do-bẩn, du-thừa, dau- ốm, gầy- ốm, hình-ảnh, lẫn-lộn, lựa-chọn, mập-béo, nhỏ-bé, nông-cạn, ôđù, sắc-bén, thổi- nấu, thuong-yêu, to-lớn, roi-rớt.

- Từ kép gồm hai từ dồng âm: chậm-chậm, dờiđời, hàng-hàng, hay-hay, hiu-hiu, lớp-lớp, mãi-mãi, ngày-ngày, rầu-rầu, xa-xạ..

2.3 Nhân danh (tên tục, tên hiệu): Nguyễnđu, Tố-Nhu, Truong-Vinh- Ký, Đào- Duy-Anh, Duong-Quảng-Hàm, Trần-Trọng-Kim, Nguyễn-Hiến-Lê, Vuong-Hồng- Sển.

2.4 Địa danh: Việt-Nam, Hoa-Kỳ.

2.5 Danh từ riêng phiên âm: Hoa-Thịnh-Đốn, Mạc-Tu-Khoa.

2.6 Từ có quan hệ qua lại với nhau: từ diển Hán-Việt, bang giao Mỹ- Việt, luật hỏi-ngã, thi van cổ-kim, van hóa Đông-Tây, phát triển khoa-học- kỹ-thuật.

2.7 Danh từ chung phiên âm: cát-xết, viđê-ọ Đối với một số tên chung phiên âm dã hoàn toàn Việt hóa, ta bỏ luôn cái gạch nối: cà phê, cà vạt, câu lạc bộ, dô la, ga ra, nóc ao, ra da, ra gu, ti vi, xích lô.

2.8 Một số từ ngữ mà các âm tiết không thể tách rời: chợ-nhà- lồng, khô-cá- chỉ- vàng, tại-vì-bởi.

2.9 Giữa các con số chỉ ngày tháng nam : ngày 1-1-1998

2.10 Giữa hai nhóm số chỉ nam dể nói lên khoảng cách thời gian: 1975 - 1998.

Trên dây là những qui tắc trong việc sử dụng cái gạch nối khoảng truớc nam 1975. Tuy nhiên cung phải ghi nhận là việc dùng cái gạch nối này của những nguời làm van hóa chua thống nhất. Có tác giả áp dụng triệt dể các nguyên tắc, nhung cung có tác giả chỉ áp dụng một cách dại khái hay tuong dối, tùy theo quan niệm của mỗi cá nhân. Thậm chí, có truờng hợp cùng một tác giả mà trong một bài viết, dối với các từ ghép (cả Hán-Việt lẫn thuần Việt) có lúc dùng cái gạch nối, có lúc không.

Xin trích dẫn một doạn trong lời tựa "Vì sao có sách nàỷ" của cuốn "Giản-yếu Hán-Việt Từđiển" của nhà học giả tiền bối Đàođuy-Anh, viết ngày 1-3-1931, Nxb Minh Tân, Paris, in lại nam 1949:

Vô luận nuớc nào, van-tự dã phát dạt dến một trình dộ khá khá dều phải có những sách Tựđiển hoặc Từđiển dể làm tiêu-chuẩn và can-cứ cho nguời học. Quốc-van của ta ngày nay dã có chiều phát dạt, thế mà ta chua thấy có một bộ sách Tựđiển hoặc Từđiển nào, dó thực là một diều khuyếtđiểm lớn mà ai cung phải công-nhận.

Trong doạn van trên dây, theo nguyên tắc, những từ in nghiêng phải có cái gạch nối, vì dó là những từ Hán-Việt và từ ghép thuần Việt. Nhung vì sao tác giả không dùng gạch nối? Sự kiện này cho thấy, việc sử dụng cái gạch nối khó dạt dến sự thống nhất nhu trên lý thuyết.

3. Ngữ pháp mới

Khoảng từ nam 1975 cho dến nay:

3.1 Trong nam truờng hợp ghi từ mục 2.1 dến 2.5 trên dây, tuyệt dại số những sách báo xuất bản trong nuớc và tại hải ngoại, ta dã xóa bỏ hẳn cái gạch nối. Sự "cải cách" này dã diễn ra âm thầm. Có phải chang nó dã xuất phát từ một "ngữ pháp bất thành van." Các tác giả tiền bối lần hồi bỏ cái gạch nối. Thế là các tác giả hậu bối cung theo guong.

3.2 Trong nam truờng hợp kế tiếp, từ mục 2.6 dến 2.10, ta vẫn duy trì cái gạch nối.

3.3 Từ ngày trong nuớc và ở hải ngoại hai phuong tiện diện thoại và diện thu (fax) duợc phổ biến, ta dã dùng cái gạch nối dể phân cách các nhóm số của hai hệ thống nàỵ Điện thoại: 714 - 500-4000, Điện thu: 714 - 800-7000.

3.4 Chúng ta thử tìm hiểu xem nguyên nhân nào khiến cho, sau nam 1975, cái gạch nối dã duợc xóa di trong nam truờng hợp từ 2.1 dến 2.5.

Thực tế cho thấy, việc dùng gạch nối ở nam truờng hợp nói trên dã gây một số bất tiện và phiền phức.

- Nguời viết phải bận tâm dến cái gạch nối, mất thời giờ suy nghi, thời giờ viết lên giấy và thời giờ dò lại bài xem có sai sót không?

- Trong ngành ấn loát, nguời dánh máy và nguời sắp chữ phải nhọc công và khổ sở vì cái gạch nối. Truớc kia, trong thời kỳ ngành ấn loát nuớc ta còn lạc hậu, việc sắp chữ dể làm bản in "typo" duợc thực hiện theo lối thủ công. Trong công việc sắp chữ, thêm một cái gạch nối kể nhu thêm một con chữ.

Việc xóa bỏ gạch nối không ảnh huởng trầm trọng dến câu van về mặt ngữ nghia. Nguời dọc bình thuờng dễ dàng phân biệt từ don và từ ghép. Cả nguời viết và nguời dọc dã mặc nhiên hiểu ngầm là các từ ghép Hán- Việt và thuần Việt luôn luôn duợc nối với nhau bằng cái "gạch nối vô hình." Ta dã "hi sinh" cái hợp lý dể dổi lấy cái thực dụng, cái giản tiện. Ngày truớc, có cái gạch nối là hợp lý. Ngày nay không có cái gạch nối cung hợp lý. Ngữ pháp chung qui chỉ là một qui uớc, một sự giao uớc giữa nguời viết và nguời dọc.

4. Viết dính liền

Từ xua tới nay, cả ở trong nuớc lẫn ở hải ngoại, một số nguời có xu huớng viết dính các âm tiết ở hai truờng hợp 2.1 và 2.2: tựdo, vữngvàng, ngônngữhọc, kimtựtháp, hàngkhôngmẫuhạm. Giải pháp này là dể thay thế cái gạch nối dối với các từ ghép. Tuy nhiên, việc cải cách này gặp một trở ngại khác và xét không ổn nên không duợc huởng ứng. Lý do là những từ viết dính liền có thể sẽ bị dọc và và bị hiểu sai lệch.

4.1 Những từ ghép dính liền có thể duợc dọc một cách khác:

Bình an viết bìnhan có thể dọc là bì nhan hoặc bìn han

Giáo án viết giáoán có thể dọc là giá oán hoặc gi áo án

Phátââm -- phát âm -- phá tâm

Phát hành -- pháth ành -- phá thành

Tình ái -- tìn hái -- tì nhái -- tìn hái

4.2 Những từ vốn chỉ có một âm nay có thể duợc dọc tách rời thành hai âm:

Thúy có thể dọc là thú y

Khối -- kho ái hoặc khó ai

5. Kết

Những nguời chủ truong duy trì cái gạch nối trong những từ ghép Hán-Việt và thuần Việt và những nguời chủ truong viết dính liền những từ ghép lại này dều có lý. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, dối với bất cứ ngôn ngữ nào cung vậy, nguời ta không thể ép nó vào một khuôn mẫu hợp lý duợc. Nói và viết, dúng hay sai là một thói quen, lập di lập lại qua nhiều thế hệ. Mà thói quen xuất phát từ sự thực dụng. Và một khi dã thông dụng thì mọi nguời dều phải theo. Khó mà dem môn lý luận ra dể phê phán duợc. Trừ phi, có diểm nào quá vô lý, nếu muốn sửa dổi thì phải có sự dồng thuận của số dông.

Phụng Nghi

http://p083.ezboard.com/fvietthingstailieu.showMessage?topicID=35.topic

Dấu "Hỏi Ngã" Trong Văn Chương Việt Nam

Dấu "Hỏi Ngã" Trong Văn Chương Việt Nam -
------------------------------------

Văn hóa Việt Nam của chúng ta vô cùng phong phú.

Một trong những nguồn phong phú vô ngàn mà trên thế giới không ai có, đó là ý nghĩa về dấu hỏi ngã Thật thế, dấu hỏi ngã trong tiếng Việt đóng một vai trò quan trọng.

Viết sai dấu hỏi ngã sẽ làm đảo ngược và có khi vô cùng tai hại cho văn chương và văn hóa Việt Nam.

Chúng tôi xin đơn cử một vài trường hợp như sau. Danh từ nhân sĩ, chữ sĩ phải được viết bằng dấu ngã để mô tả một vị chính khách có kiến thức văn hóa chính trị..., nhưng nếu vô tình chúng ta viết nhân sỉ, chữ sỉ với dấu hỏi thì ý nghĩa của danh từ nhân sĩ sẽ bị đảo ngược lại, vì chữ sĩ với dấu hỏi có nghĩa là nhục sĩ và như vậy sẽ bị trái nghĩa hoàn toàn.

Một chữ thông thường khác như là hai chữ sửa chữa, nếu bỏ đi dấu hỏi ngã sẽ có nhiều ý khác nhau: sửa chữa (sửa dấu hỏi, chữa dấu ngã) tức là chúng ta sửa lại một cái gì bị hư hỏng, thí dụ sửa chữa xe hơi. Nhưng nếu cho dấu ngã vào thành chữ sữa và dấu hỏi trên chữ chửa tức có nghĩa là sữa của những người đàn bà có thai nghén.

Người sai lỗi nhiều nhất về viết sai dấu hỏi ngã là người miền Nam và Trung (người viết bài này là người miền Trung).

May mắn nhất là người thuộc miền Bắc khi sinh ra là nói và viết dấu hỏi ngã không cần phải suy nghĩ gì cả. Nhưng khốn nỗi có khi hỏi họ tại sao chữ này viết dấu hỏi chữ kia lại đánh dấu ngã thì họ lại không cắt nghĩa được mà chỉ nở một nụ cười trên môị..

Bài viết này nhằm mục đích đóng góp một vài qui luật về dấu hỏi ngã của tiếng mẹ đe? Việt Nam chúng ta.

Dấu hỏi ngã được căn cứ vào ba qui luật căn bản: Luật bằng trắc, chữ Hán Việt và các qui luật ngoại lệ.

A. LUẬT BẰNG TRẮC
Qui luật bằng trắc phải được hiểu theo ba qui ước sau.

1. Luật lập láy

Danh từ lập láy tức là một chữ có nghĩa nhưng chữ ghép đi theo chữ kia không có nghĩa gì cả. Thí dụ: vui vẻ, chữ vui có nghĩa mà chữ vẻ lại không nghĩa, chữ mạnh mẽ, chữ mạnh có nghĩa nhưng chữ mẽ lại không hề mang một ý nghĩa nào hết, hoặc chữ lặng lẽ, vẻ vang...

2. Luật trắc

Không dấu và dấu sắc đi theo với danh từ lập láy thì chữ đó viết bằng dấu hỏi (ngang sắc hỏi).

Thí dụ:

Hớn hở: chữ hớn có dấu sắc, thì chữ hở phải là dấu hỏi.
Vui vẻ: chữ vui không dấu, thì chữ vẻ đương nhiên phải dấu hỏi.
Hỏi han: chữ han không dấu, như thế chữ hỏi phải có dấu hỏi.
Vớ vẩn: chữ vớ là dấu sắc thì chữ vẩn phải có dấu hỏi.
Tương tự như mắng mỏ, ngớ ngẩn, hở hang, ...

3. Luật bằng
Dấu huyền và dấu nặng đi theo một danh từ lập láy thì được viết bằng dấu ngã (huyền nặng ngã).

Thí dụ:

Sẵn sàng: chữ sàng có dấu huyền thì chữ sẵn phải là dấu ngã.
Ngỡ ngàng: chữ ngàng với dấu huyền thì chữ ngỡ phải để dấu ngã.
Mạnh mẽ: chữ mãnh có dấu nặng, do đó chữ mẽ phải viết dấu ngã.
Tương tự như các trường hợp lặng lẽ, vững vàng,...

B. CHỮ HÁN VIỆT

Văn chương Việt Nam sử dụng rất nhiều từ Hán Việt, chúng ta hay quen dùng hằng ngày nên cứ xem như là tiếng Việt hoàn toàn. Thí dụ như các chữ thành kiến, lữ hành, lãng du, viễn xứ, ... tất cả đều do chữ Hán mà ra.

Đối với chữ Hán Việt được sử dụng trong văn chương Việt Nam, luật về đánh dấu hỏi ngã được qui định như sau:

Tất cả những chữ Hán Việt nào bắt đầu bằng các chữ D, L, V, M và N đều viết bằng dấu ngã, cá chữ Hán Việt khác không bắt đầu bằng năm mẫu tự này sẽ được viết bằng dấu hỏi.

Thí dụ:

Dĩ vãng: hai chữ này phải viết dấu ngã vì dĩ vãng không những là hán tự mà còn bắt đầu bằng chữ D và V.

Vĩ đại: vĩ có dấu ngã vì chữ vĩ bắt đầu với mẫu tư. V.
Ngẫu nhiên: chữ ngẫu dấu ngã vì áp dụng qui luật Hán Việt nói trên.
Lẽ phải: lẽ dấu ngã vì chữ L, phải dấu hỏi vì có chữ P.
Tư tưởng: chữ tưởng phải viết dấu hỏi vì vần T đứng đầu.

Tương tự như: lữ hành, vĩnh viễn,...

Để thể nhớ luật Hán tự dễ dàng, chúng tôi đặt một câu châm ngôn như thế này:

"Dân Là Vận Mệnh Nước"

để dễ nhớ mỗi khi muốn sử dụng qui luật Hán tự nói trên.

C. CÁC QUI ƯỚC KHÁC

1. Trạng từ (adverb)

Các chữ về trạng từ thường viết bằng dấu ngã.

Thí dụ:

Thôi thế cũng được. Trạng từ cũng viết với dấu ngã.
Xin anh đừng trách em nữa. Trạng tự nữa viết với dấu ngã.
Chắc anh đã mệt lắm rồi. Trạng từ đã viết với dấu ngã.

2. Tên họ cá nhân và quốc gia

Các họ của mỗi người và tên của một quốc gia thường được viết bằng dấu ngã.

Thí dụ:

Đỗ đình Tuân, Lữ đình Thông, Nguyễn ngọc Yến...
Các chữ Đỗ, Lữ, Nguyễn đều viết bằng dấu ngã vì đây là danh xưng họ hàng.

Nước Mỹ, A phú Hãn,...
Các chữ Mỹ và Hãn phải viết bằng dấu ngã vì đây là tên của một quốc gia.

3. Thừa trừ

Một qui ước thừa trừ ta có thể dùng là đoán nghĩa để áp dụng theo luật lập láy và bằng trắc nói trên.

Thí dụ:

Anh bỏ em đi lẻ một mình. Chữ lẻ viết dấu hỏi vì từ chữ lẻ loi mà ra, chữ loi không dấu nên chữ lẻ viết với dấu hỏi.

Anh này trông thật khỏe mạnh, chữ khỏe ở đây có dấu hỏi vì do từ khỏe khoắn mà ra, khoắn dấu sắc thì khỏe phải dấu hỏi.

D. KẾT LUẬN

Văn chương là linh hồn của nền văn hóa, viết sai dấu hỏi ngã có thể làm sai lạc cả câu văn, đó là chưa kể đến nhiều sự hiểu lầm tai hại cho chính mình và người khác cũng như các việc trọng đại. Không gì khó chịu cho bằng khi đọc một cuốn truyện hay nhưng dấu hỏi ngã không được chỉnh tề.

Một ký giả người miền Nam trong câu chuyện thân mật tại một quán phở thược vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn đã thành thật công nhận điều thiếu sót và tầm quan trọng của dấu hỏi ngã trong văn chương Việt Nam. Và cũng chính vị ký giả lão thành nói trên đã khuyến khích chúng tôi viết bài này trong mục đích làm sống lại sự phong phú của nền văn chương, văn hóa Việt Nam chúng ta, nhất là đối với những thế hệ trẻ hiện đang lưu lạc trên xứ người.

CAO CHÁNH CƯƠNG
Trích tài liệu khóa Tu nghiệp Sư phạm 1991
Của các Trung tâm Việt ngữ Miền Nam Cali


http://p083.ezboard.com/fvietthingstailieu.showMessage?topicID=27.topic

Chữ Quốc Ngữ

Quá Trình Hình Thành ... Chữ Quốc Ngữ--------------------------------------------------------------------------------
Quá trình Hình thành và Phát triển chữ Quốc ngữ
Trích Đặc San Văn Lang 1992


Trước khi chữ Quốc Ngữ ra đời, chúng ta đã dùng chữ Hán, chữ Nôm

[1]. Chữ Hán là chữ Tàu nhưng đọc theo giọng Việt, khác hẳn giọng của những người Tàu mặc dù nước Việt đã trải qua hàng ngàn năm đô hộ. Vì truyền thống dân tộc không thể để bị đồng hóa, chữ Nôm ra đời. Chữ Nôm dùng những chữ Hán ghép lại để ghi tiếng Việt vì vậy chữ Nôm có rất nhiều nét. Chữ Quốc Ngữ

[2] mà ngày nay chúng ta dùng là loại chữ dùng những mẫu tư. La Tinh ghép thành. Trong tất cả những nước Á Châu, chỉ có Việt Nam và Phi Luật Tân là hai nước dùng mẫu tư. La Tinh trong chữ viết. Đây là có phải là một điều hay, một niềm hãnh diện hay không? Chúng ta hãy thử bàn xem.

Bàn về lợi chúng ta không phủ nhận được sự ích lợi và tiện nghi của chữ Quốc Ngữ so với chữ Hán và Nôm. Tiện nghi thứ nhất là dễ học, chỉ cần vài tháng là mọi người có thể đọc và viết được chữ Quốc Ngữ. Trong khi đó học chữ Hán cần một thời gian dài và phải nhớ từng chữ một vì chữ Hán là một loại chữ tượng hình. Học chữ Nôm còn khó hơn vì chữ Nôm là những kết hợp của chữ Hán và có rất nhiều nét.

Mặt khác, trong việc in, phát hành sách báo, chữ Quốc Ngữ chỉ cần vài chục mẫu tự để ghép lại; trong khi đó chữ Nôm và chữ Hán có hằng hà sa số "mẫu tự" khác nhau.

Bàn về hại thì không nhiều lắm. Với chữ Quốc Ngữ, chúng ta không phân biệt được một số chữ đọc giống nhau, viết giống nhau, nhưng lại có nghĩa khác nhau. Nếu viết theo chữ Hán thì chúng ta có thể phân biệt được (thí dụ như chữ Minh có nghĩa là sáng như Minh Mẫn, chữ Minh có nghĩa là mờ mờ như chữ U Minh).

Về phương diện nghiên cứu, vì chữ Hán là loại chữ tượng hình, cho nên ta có thể phân tích những chữ viết mà giải thích lối suy nghĩ của người xưa qua phương pháp chiết tự.

Bàn về có hay không hãnh diện về dùng chữ Quốc Ngữ so với chữ Nôm và chữ Hán là một vấn đề quan trọng. Nhiều người mặc cảm cho rằng chữ Quốc Ngữ là loại chữ "mượn" những mẫu tư. La Tinh và do người ngoại quốc sáng chế vì vậy không có gì là hãnh diện khi dùng chữ Quốc Ngữ. Chúng tôi không đồng ý.

Thứ nhất là chữ Hán là chữ của người Tàu mà chúng ta đã bị ép buộc phải dùng trong vài ngàn năm, vì sự ép buộc này nên cha ông ta đã "đẻ" chữ Nôm, loại chữ dùng chữ Hán để viết và đọc theo giọng Việt. Chữ Nôm, chữ Hán và chữ Quốc Ngữ đều là chữ mượn. Thứ hai là chữ Nôm do người "mình" chế ra còn chữ Quốc Ngữ là do người Âu Châu. Chúng tôi cũng không đồng ý về điểm này vì đây không thể là công việc một vài người có thể làm được.

Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này. Tóm lại chúng ta không có gì là tự ti mặc cảm khi dùng chữ viết mượn của nước khác vì đó giống như là một qui luật từ Đông sang Tây. Nước ta mượn chữ Hán để hoàn thành chữ Nôm, chữ Pháp, Bồ Đào Nha, Ý để hoàn thành chữ Quốc Ngữ. Còn Pháp, Anh, Bồ Đào Nha, v.v. mượn chữ Latin để hoàn thành chữ của họ; người Pháp hãnh diện về chữ viết của họ, Nga thì do anh em Kirille dịch quyển thánh kinh để truyền đạo và đẻ ra chữ Slaves. Người Nga trọng anh em Kirille, chúng ta trọng Ạ de Rhodes, Barbosa thì đâu có gì lạ.

Quá trình hình thành và phát triển của chữ Quốc Ngữ có thể chia thành ba giai đoạn: giai đoạn phôi thai, gian đoạn cải tiến và giai đoạn trưởng thành.

I. Giai Đoạn Phôi Thai: Thế Kỷ 16-17

A. Nguyên Nhân

Bắt đầu từ thế kỷ 16, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ ơ? Âu Châu. Các công ty thương mãi mọc lên như nấm. Người Âu Châu đua nhanh vượt đại dương tìm đất mới. Những nước như Bồ Đào Nha (Portugal), Ý Đại Lợi (Italy), Hòa Lan (Holland), Anh (England), Pháp tranh nhau giành căn cứ, thị trường và thuộc địa. Các nhà thương mãi đi đến đâu là các nhà truyền giáo đi đến đó.

Họ đến Việt Nam vào thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, đất nước bị chia ra Đàng Ngoài và Đàng Trong. Muốn giảng đạo, các nhà truyền giáo phải học tiếng bản xứ, vì vậy họ đã dùng chữ La Tinh để ghi lại những cách phát âm của tiếng Việt và giảng nghĩa những chữ đó bằng tiếng của họ.

Lâu ngày tích tụ lại thành một quyển tự điển. Đó là nguyên nhân của sự ra đời của chữ Quốc Ngữ ngày nay, mục đích chính là các nhà truyền giáo học tiếng Việt để truyền đạo.

B. Ai Là Người Chế Ra Chữ Quốc Ngữ?

Cho đến nay có nhiều người nghĩ rằng Alexandre de Rhodes (còn được gọi là Đắc Lộ, xin chớ lầm lẫn với Bá Đa Lộc - P. De Béhaine) là ông tổ của chữ Quốc Ngữ. Theo sự nghiên cứu của giáo sư Thanh Lãng thì "de Rhodes không phải là ông tổ duy nhất của chữ Quốc Ngữ và cũng không phải là một trong những ông tổ của chữ Quốc Ngữ.

Sự phiên âm đã có trước khi de Rhodes chưa đến Việt Nam ... Ba lần De Rhodes xác nhận là có nhiều sách vở đã viết theo lối phiên âm mà ông cho là không hợp lý lắm. Tuy nhận là không hợp lý mà ông vẫn phải tuân theo, chứng tỏ những sách kia đã phải được phổ biến lắm, nếu không de Rhodes đã đề nghị một lối khác. Tiếc rằng những sách mà de Rhodes nói đến ấy, cho đến ngày nay chúng ta chưa tìm ra một vết tích gì"

[3]. Nói như vậy không phải là chúng ta phủ nhận những công trình của de Rhodes đối với chữ quốc ngữ, quyển tự điển do chính ông soạn là quyển từ điển Quốc Ngữ lâu đời nhất (1651) mà chúng ta còn giữ lại được.

Trở lại vấn đề, ai là người chế ra chữ Quốc Ngữ? Không có một cá nhân nào hết. Trước de Rhodes đã có những giáo sĩ người Bồ Đào Nha như Gaspar de Amaral và Antonio Barbosa đã làm những quyển tự điển đầu tiên.

Nhưng ngay cả hai giáo sĩ này cũng không phải là những người chế ra chữ Quốc Ngữ, vì trước đó đã có nhiều giáo sĩ giỏi tiếng Việt như J. Roiz, G. Luis, C. Borri, v.v. còn để lại nhiều tại liệu viết từ năm 1621 (de Rhodes 1626).

Vậy, chữ Quốc Ngữ được sáng chế ra bởi cả một số đông giáo sĩ trong quá trình ghi chép, phiên âm và sử dụng hàng chục năm, không xác định được là năm nào, là cá nhân nào.

II. Giai Đoạn Cải Tiến: Thế Kỷ 17-18

A. Tình Trạng Chữ Quốc Ngữ Trước Từ Năm 1651 Trơ? Về Trước

Trong giai đoạn đầu chữ Quốc Ngữ còn nhiều khuyết điểm. Những khuyết điểm đó là: chưa có các dấu thanh (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng), viết dính nhau và còn thiếu nhiều nguyên âm. Chẳng hạn như:

Quanmguya = Quảng Ngãi
Onsaij = ông sải
Tuijciam biêt = Tui Chẳng Biết
Mocaij = một cái

Hồi này chưa có các phụ âm đơn: đ, x, v cho nên những phụ âm này được viết như sau:

d = đ (đói = doij)
sc = x, (xin = scin)
b = v, (vào = bau)

Lại thiếu phụ âm kép: ch, gh, nh, tr; cho nên:

gn = nh
cia = ch

Đến năm 1626, chữ Quốc Ngữ đã được viết rời ra.
Theo tài liệu viết tay của Francesco Buzomi:

Thien chu = thiên chũ (thiên chúa)
ngaọc huan = ngọc hoàng

Đến năm 1632, hệ thống phụ âm, nguyên âm và các dấu thanh đã trở nên hoàn hảo.

Một vài chữ từ tài liệu của Amaral:

Đàng tlaõ = đàng trong,
Đàng ngoày = đàng ngoài,
Đđàng tlên = đàng trên
Nhà thương đây = nhà thượng đài

Đến đây ta đã thấy chữ Quốc Ngữ đã tiếng một bước dài. Đó là có đủ năm dấu thanh (sắc, huyền, hỏi, ngã và nặng), các nguyên âm (a, ă, â, e, ê, v.v.), các âm kép (au, ưa, âĩ, v.v.), và những phụ âm kép (nh, ch, ng, v.v.).

Nhưng chữ Quốc Ngữ chưa thật sự trưởng thành cho đến năm 1651 khi quyển tự điển Việt-Bồ-La (Việt Nam - Portugese - Latin) và quyển Giáo Lý của de Rhodes ra đời. Sự ra đời của quyển Từ Điển này là một cái mốc quan trọng trong quá trình hình thành chữ Quốc Ngữ. Đây là quyển từ điển đầu tiên, nó tiêu chuẩn hóa một hệ thống chữ Quốc Ngữ. Quyển từ điển này gồm có ba phần:

Phần thứ nhất viết bằng tiếng La Tinh, nói về ngữ pháp của tiếng Việt, nói về chữ, dấu, động từ, danh từ và cú pháp tiếng Việt.

Đây có lẽ là cuốn ngữ pháp đầu tiên của Việt Nam.

Phần thứ hai là phần chính, đó là tự điển Việt Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh.

Phần thứ ba là tự điển La Tinh - Việt Nam. Phần có thể coi là quyển tự điển La-Việt đầu tiên.

Quyển Giáo Lý (Cathechismus) là quyển sách song ngữ, được viết bằng hai thứ tiếng La Tinh và Việt. Sách này chia ra làm tám phần, mỗi phần là một ngày học.

B. Lần Chỉnh Đốn Thứ Nhất: Từ Điển Béhaine (1772)

Sau de Rhodes là P. De Béhaine (thường được gọi là Bá Đa Lộc), với sự cộng tác của Hồ Văn Nghi và một số người Việt khác đã hoàn thành quyển từ điển Annam - Latin. Bộ từ điển này gồm hai phần, phần tra chữ Nôm theo 214 bộ chữ Hán và phần từ điển Nôm - Quốc Ngữ - Latin.

Phần tra chữ Nôm dạy về cách đọc chữ Nôm theo bộ và số nét. Phần thứ hai là tự điển tiếng Việt ghi theo lối viết Nôm và Quốc Ngữ, sắp theo mẫu tự abc. Số lượng từ trong phần này là 4843 từ đơn và mấy chục ngàn từ kép.

Tất cả đề được ghi và giải nghĩa bằng chữ Latin.

Những cải tiến trong quyển từ điển này là: thống nhất các phụ âm đầu, loại bỏ các phụ âm: bl, de, ge, ml, tl và thống nhất các phụ âm cuối.

Ngoài ra vì được sự cộng tác của nhiều người Việt cho nên trong quyển từ điển này có cả trăm câu ca dao, tục ngữ rất có giá trị như:

Sá bao cá chậu chim lồng,
Hễ người quân tử có cùng mới nên

Duỗi theo ống thẳng lận theo bầu tròn

Bụng làm dạ chịu

Cháu đẻ ra ông

Thắp đuốc tìm giàu, giàu chẳng thấy
Cầm gươm chém khó, khó theo sau.

Những câu này đã được ghi bằng chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ và chữ Latin. Thật là một tài liệu giá trị.

C. Lần Chỉnh Đốn Thứ Nhì: Từ Điển Taberd (1832)

Với sự hợp tác của Phan Văn Minh và nhiều người Việt Nam khác, Taberd đã sử dụng và bổ sung quyển tự điển của Béhaine để hoàn tất hai quyển tự điển: Annam-Latin và Latin-Annam. Tự điển này có nhiều từ hơn quyển những quyển tự điển đã làm trước đó.

Tự điển Annam-Latin của de Rhodes (1651) có 3772 từ, De Béhaine (1772) có 4843 từ, Taberd (183 có 4959 từ. Nên biết rằng trong việc biên soạn quyển từ điển này, Taberd chỉ chủ trương và phối hợp. Còn công việc biên soạn phần Nôm, phần Quốc Ngữ và thích nghĩa là công việc của một số người Việt Nam.

III. Giai Đoạn Phát Triển: Từ Năm 1862 Trơ? Về Sau


Cho đến năm 1862, chữ Quốc Ngữ chỉ được sử dụng trong giới truyền giáo, nhưng khi người Pháp xâm chiếm Nam Kỳ làm thuộc địa, chữ Quốc Ngữ đã trở nên phổ thông. Cần sử dụng chữ Quốc Ngữ làm phương tiện cai trị nên người Pháp đã ra sức phổ biến chữ Quốc Ngữ và vì chữ Quốc Ngữ rất là dễ học so với chữ Nôm hoặc chữ Hán, chữ Quốc Ngữ trở nên thông dụng.

Trong giai đoạn này đã có nhiều tác phẩm bằng chữ Quốc Ngữ được ấn hành như: Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều, Gia Huấn Ca, Tam Tư. Kinh, Minh Tâm Bửu Giám, tự điển song ngữ của Trương Vĩnh Ký, v.v. Đặc biệt là quyển Đại Nam Quấc Âm Tư. Vị của Huình Tịnh Paulus Của (1895), quyển tự điển xưa nhất mà hiện nay còn lưu hành với 7537 từ đơn. Quyển này chứa nhiều từ ngữ xưa mà ngày nay không còn được sử dụng nữa.

Vì vậy, nó là một kho tài liệu vô cùng quí giá. Song song với những tác phẩm trên, nhiều tờ báo đã được lưu hành như Gia Định Báo (1865), Phan Yên Báo (186 , Nhật Trình Nam Kỳ (1883), Nam Kỳ Địa Phận (1883), Nông Cô? Mím Đàm (1901), v.v. Đánh dấu sự tiến triển vượt bực của chữ Quốc Ngữ.

IV. Chữ Quốc Ngữ Ngày Nay

Chữ Quốc Ngữ đã góp phần to lớn trong công việc bảo tồn và phát huy nền văn hóa nước nhà. Vì dễ học, cho nên đại đa số quần chúng có thể thưởng thức những tác phẩm Hán và Nôm đã được Quốc Ngữ hóa. Nhiều tác phẩm mới đã được phát hành rộng rãi vì phương tiện ấn loát dễ dàng và ít tốn kém, đặc biệt là từ khi chữ Quốc Ngữ được điện toán hóa. Chữ Quốc Ngữ đã tạo điều kiện cho nền Văn Học Việt Nam phát triển toàn diện.

Một số thầy trường Văn Lang tóm lược.
(Tài liệu: Chữ Quốc Ngữ

Trên Đất Sài Gòn - Gia Định
Những Thế Ky? XVII-XVII-XIX
của Trần Văn Giàu,
Thanh Lãng và
Hoàng Xuân Việt)

------------------------------------
Chú thích:

(1) "Quốc ngữ" có nghĩa là ngôn ngữ của một quốc gia, nhưng vì lúc mới hình thành loại chữ viết này được gọi là chữ quốc ngữ, dùng riết rồi quen cho nên chúng tôi xin viết hoa như tên của một loại chữ viết.

(2) Có vài học giả cho rằng trước khi dùng chữ Hán, nước ta đã có một loại chữ "quốc ngữ" mà sau này bị chữ Hán bức tử. Giả thuyết này cho rằng những hình khắc trên trống đồng Ngọc Lũ là chữ của nước ta vào thời Âu Lạc, Hùng Vương.

(3) Thanh Lãng, "Những chặng đường của chữ Việt quốc ngữ", Tạp Chí Đại Học số, tháng 2/1961 - Kỷ niệm giáo sĩ Đắc Lộ.


Oui! Sưu Tầm
http://p083.ezboard.com/fvietthingstailieu.showMessage?topicID=25.topic

Nguồn Gốc Tiếng Việt

Nguồn Gốc Tiếng Việt
--------------------------------------------------------------------------------
Nguồn Gốc Tiếng Việt: Chuyện Xưa Nhắc Lại



Tiếng nói là nhịp cầu cảm thông để trao đổi tư tưởng trong sinh hoạt xã hội giữa con người cùng dòng giống xứ sở. Có con người là có ngôn ngữ. Ngôn ngữ văn tự có ảnh hưởng rất lớn và quan hệ mật thiết đến sự hưng vong của giống nòi. Dân tộc có một trình độ văn hóa cao, càng văn minh thì họ lại càng chú trọng đến ngôn ngữ văn tự.


Dân tộc ta, ngót năm ngàn năm lịch sử, có cùng chung một gốc, cùng chung một tiếng nói. Từ Bắc chí Nam, ngoại trừ một số dân thiểu số còn dùng thổ âm và một số địa phương dùng phương ngữ hay phát âm có đôi chút sai biệt, chúng ta đều nói, nghe và hiểu một thứ tiếng, đó là tiếng Việt Nam.

Vậy tiếng Việt có tự bao giờ!? Tiếng Việt bắt nguồn từ đâu!?

Tiếng Việt có phải tự ngàn xưa đã là một tiếng nói thật sự thuần Việt hay là một kết quả của sự hỗn hợp trại lẫn của nhiều tiếng nói khác nhau ?!

Trước khi tìm về cội nguồn tiếng Việt, việc phải làm đầu tiên là ta phải đi ngược dòng thời gian để tìm ra gốc tích của tổ tiên Việt Nam. Qua đó, ta mới có thể truy nguyên được tiếng nói của dân tộc. Vì thời gian lịch sử xa xăm mù mịt, vấn đề nguồn gốc Việt Nam, cũng như nguồn gốc tiếng Việt thật khó mà khẳng định một cách chính xác. Kê cứu theo sử ký, truyền thuyết, giả thuyết và nhất là những ý kiến, lập luận, ức thuyết của các học giả, sử gia Việt, Pháp, Tàu thì vấn đề này càng rẽ ra trăm mối, bất nhất và mâu thuẫn. Tuy nhiên, tôi cũng ghi chép lại những điều đã đọc để các bạn rộng đường thảo luận và kính xin các bậc thức giả sửa sai hoặc góp ý giùm cho.

Nguồn gốc dân tộc Việt/Tiếng Việt vào thời đại sơ cổ:

Kể từ trời mở viêm bang Sơ đầu có ho. Hồng Bàng mới ra Cháu đời Viêm Đế thứ ba Nối dòng Hỏa Đức gọi là Đế minh Quan phong khi giá Nam hành Hay đâu Mai Lĩnh duyên sinh Lam Kiều Vu. Tiên vừa nở đào yêu Xe Loan nối gót, tơ điều kết duyên Dòng thần sánh với người tiên Tinh anh nhóm lại, thánh hiền nối ra Phong làm quân trưởng nước ta Tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương Hóa Cơ dựng mối luân thường Động Đình sớm kết với nàng Thần Long Bến hoa ứng vẻ lưu hồng Sinh con là hiệu Lạc Long trị vì(1)

Theo truyền thuyết (tục truyền) thì khai mở ho. Hồng Bàng (2879 - 258 tr. CN) là Lộc Tục, con trai vua Đế Minh. Sau Đế Minh nhường ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ.


Bờ cõi nước Xích Quỷ phía bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp bê? Đông hải. Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào khoảng năm Nhâm tuất (2879 tr. CN) và lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ đẻ ra Lạc Long Quân Sùng Lãm.

Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên Âu Cơ, sanh được 100 con trai. Chia 50 đứa con theo mẹ lên núi, 50 đứa con theo cha xuống bê? Nam Hải. Lạc Long Quân phong cho con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương, tức Quốc tổ của dân tộc Việt Nam ngày naỵ (2)

Tuy nhiên, theo sách Đại Việt Sư? Lược do Tiền Hi Tộ đời nhà Thanh hiệu đính, có ghi một đoạn rất quan trọng như sau:

"Đến đời Trang Vương nhà Chu, năm 696-682 tr. CN, ở bô. Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật, áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ơ? Văn Lang, hiệu nước là Văn Lang... Truyền được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương."(3)

Như vậy là Hùng Vương đã xuất hiện ở thế kỷ thứ 7 tr. CN. Từ đó cho tới năm 257 tr. CN thì nước Văn Lang bi. Thục An Dương Vương thôn tính. Tính ra ho. Hùng trị vì được 439 năm, nếu đem ra 18 đời, thì mỗi đời trung bình từ 25 tới 30 năm. Như thế có phần xác thực hơn là nói ho. Hồng Bàng và ho. Hùng cai trị cả mấy nghìn năm như truyền thuyết ghi chép.

Thế nhưng trong truyện số 10 của Lĩnh Nam Chích Quái nói về chim Bạch trĩ, lại thấy ghi rằng: về đời vua Thành Vương nhà Chu, Hùng Vương sai bề tôi tự xưng là ho. Việt Thường đem chim trĩ sang cống hiến. Vì ngôn ngữ bất đồng, Chu công phải dùng ba lần thông ngôn mới hiểu nhau được. Căn cứ vào sử ký của Tư Mã Thiên, bộ sử xa xưa nhất của Trung Hoa có ghi chép như sau:

"Năm Tân Mão thứ 6 (nhằm năm 1110 tr. CN) đời Thành Vương nhà Chu, phía nam bô. Giao Chỉ có ho. Việt Thường, qua ba lần sứ dịch, dâng chim trĩ trắng."(4)

Nếu đúng như vậy thì ho. Hùng Vương đã trị vì ít nhất là trên 800 năm. Không đúng theo sử ký của Tiền Hi Tộ, trong Tứ Khố Toàn Thư của nhà Thanh. Lại càng không đúng với Việt Nam Sư? Lược của Trần Trọng Kim hoặc của truyền thuyết.

Đó là chiếu theo sử ký và tục truyền để tìm ngọn ngành tổ tiên dân Việt, mà chúng ta cũng đã thấy nhiều điều không trùng khớp hoặc bất đồng kiến với nhau. Nhưng cũng nhờ qua tài liệu quan trọng nêu trên, ta có thể chắc rằng dân tộc Việt bấy giờ có một ngôn ngữ riêng biệt. Chính vì thế mà vua Chu đã phải ba lần kiếm tìm người thông ngôn mới có thể hiểu nhau được.

Về gốc tích của dân Việt, theo sự ghi chép của ông Trần Trọng Kim, dựa vào lập luận của các nhà nghiên cứu nước Pháp, viết rằng:

"Theo ý kiến của những nhà kê cứu của nước Pháp, thì người Việt Nam và người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt theo sông Hồng Hà lần xuống đông nam, lập ra nước Việt Nam ta bây giờ. Còn người Thái thì theo sông Mê kông, lập ra nước Tiêm La (Thái Lan) và các nước Làọ"

Lại có nhiều người Tàu và người Việt cho rằng, nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống dân Tam Miêu ở, sau đó giống Hán tộc ở phía Tây bắc đến đánh đuổi, chiếm giữ vùng sông Hoành hà lập ra nước Tàu, rồi lấn dần xuống phương nam. Người Tam miêu phải lẩn tránh vào rừng núi hoặc đào tị xuống miền Việt Nam ta bây giờ. (5) Tuy nhiên, ngay chính ông Trần Trọng Kim cũng không tin vào giả thuyết này.

Trong quyển Văn Phạm Việt Nam của Bùi Đức Tịnh (tr. 171 - 188) khi viết về lịch sử tiếng Việt, ngay câu đầu tiên ông Bùi Đức Tịnh tán thành thuyết của các học giả cho rằng Việt ngữ là một thứ tiếng thuộc về dòng Thái. Vì dòng tiếng Thái có hai đặc điểm: giọng trầm bổng như tiếng Trung Hoa, vừa có ngữ pháp đặt xuôi của loại tiếng Ấn độ - Mã Lai.

Nhà bác học Schmidt cho rằng dòng tiếng Thái thuộc về tông-chi rộng-rãi bao trùm các ngôn ngữ của những thị tộc Đông Nam Á và Đại dương châu thời sơ cổ, và đề nghị đặt tên cho tông chi ngôn ngữ này là ''tông chi Úc - Á''.

Nhưng thuyết của ông không được chứng minh một cách đầy đủ. Bác sĩ Rivet, trong đại hội các nhà tiền sử học họp tại Hà Nội vào năm 1932 cũng có đưa ra một ức thuyết: Từ miền nam châu Á hoặc từ Nam dương quần đảo, vào một thời đại tối cổ, đã có những đoàn di dân tản mác đi theo hình rẻ quạt, vượt trùng dương đến ở những đảo rải rác trên Thái bình dương và Đại tây dương ...

Người ta thường gọi chung họ là các giống Đại dương nhân (Océaniens).

Đó là những người Négritos, Mélanésien (Australien), Indonésien và Mông cổ. Theo các nhà nhân chủng học, có lẽ trước tiên, tại bán đảo Đông dương có hai giống người Mélanésien và Indonésien. Do đó, có thể ức đoán rằng vào thời sơ cổ, đã có những thị tộc người Indonésien ở vùng trung châu Bắc Việt và miền bắc Trung Việt. Một mặt khác, trước đời nhà Chu (khoảng 1050 đến 771 tr. CN) khắp vùng lưu vực sông Dương Tử, từ miền Vạn Huyện tỉnh Tứ Xuyên cho đến dọc miền biển cũng đã có chi nhánh của chủng tộc Indonésien, mà sử gia Tàu gọi họ là giống Man di.

Những phần tư? Việt tộc này đã di cư lần xuống miền Nam theo đường sông hoặc đường biển.

Theo Đào Duy Anh, có lẽ nhóm Việt tộc ở miền bờ biển Phước Kiến, hằng năm dùng thuyền gỗ hoặc mảng tre giăng buồm, nhân gió bấc vượt biển đến các miền duyên hải phương nam, đại khái vùng Hải nam, vùng trung châu sông Nhị và sông Mã phía Bắc Việt ngày nay. Đến mùa gió Nồm, họ lại vượt biển trở về nguyên quán.

Thế là ngay từ những ngày rất xưa, đã có sự tiếp xúc người Indonesian ở dọc theo bờ biển nước Bắc Việt với những người Indonesian, chi nhánh Việt tộc, ở vùng Phước Kiến. Khi nước Việt bị nước Sở diệt (333 tr. CN) làn sóng Việt tộc tràn xuống miền nam càng nhiều.


Nhóm Việt tộc vùng Phước Kiến di cư vào miền bắc Việt nam, là nơi đã quen biết trước. Họ đem theo cái thị tộc cũ là Lạc, và một nền văn hóa tuy có chỗ tương đồng với thổ dân trước nhưng đã chịu ít nhiều ảnh hưởng của giống Mongolic ở phương Bắc. Sở dĩ có tên Lạc Việt ấy là vì trong các cuộc vượt biển hàng năm, nhóm Việt tộc vùng Phước Kiến đi và về đồng thời với một giống hậu điểu thuộc loại ngỗng trời gọi là chim Lạc. Có lẽ họ đã nhận giống chim ấy là vật tổ .(6)

Theo nhà sử học người Pháp, ông Léonard Aurousseau, căn cứ vào tài liệu sử sách Trung Hoa, thì dân tộc Việt Nam chính là một trong các dân Bách Việt gốc ở tỉnh Chiết Giang (Trung Hoa) vào khoảng thế kỷ thứ 5 tr. CN, rồi lần xuống phía nam, hợp với dân bản xứ, nhờ vào điều kiện địa dư thuận tiện, đã chống lại sự xâm lăng của Tần Thủy Hoàng. Dưới đời Triệu Đà, nhờ chế độ cai trị dễ dãi mà Triệu Đà khôn khéo biệt lập, tự củng cố địa vị ở phía nam xứ Trung Hoa, tránh được ảnh hưởng của người Tàu .(7)

Nhưng lập luận này đã không đứng vững khi ông Phạm Quỳnh xét về phương diện ngôn ngữ đã chất vấn trong bài '' Xét về cội rễ tiếng Việt Nam'' như sau: (8)

"Bọn dân Việt hồi đó, rơ. Bách Việt là thủy tổ cho dân Việt Nam đó, nói tiếng gì? Nếu là tiếng Trung Hoa thì không hiểu làm sao mà biến mất hẳn đi mà xuất hiện ra một thứ tiếng khác hẳn tiếng Trung Hoa. Nếu không phải là tiếng Trung Hoa, thì các rơ. Bách Việt ấy tất phải có một hay nhiều thứ tiếng thổ âm riêng. Như vậy thì sao trong suốt các rơ.

Bách Việt ấy duy có người Việt Nam, tuy sau này còn phụ thuộc Trung Hoa đến ngàn năm nữa mà vẫn giữ được tiếng nguyên âm, còn thời các rợ khác ơ? Nam Phương nước Tàu bỏ mất hết đi để nói tiếng Trung Hoa cả? Nếu ta thừa nhận cái thuyết của ông Léonard Aurousseau, thì cái vấn đề tiếng nói tưởng cũng khó giải quyết vậy".


Theo ông Lê Ngọc Trụ (9) thì dân tộc Việt Nam đã có từ lâu đời sinh sống tại đồng bằng Bắc Việt. Còn nhóm người Việt (Câu Tiễn) miền Chiết Giang, sau thời loạn Xuân Thu bị nhà Sở thôn tính (333 tr. CN) đã di cư xuống miền nam theo đất liền đến chung sống với các dân tộc khác như ViệtđDông-Hải vùng Ô Châu, Mân-Việt vùng Phúc Châu, Nam-Việt vùng Quảng Đông, Âu-Lạc-Việt vùng phía nam tỉnh Quảng Tây và Bắc Việt Nam, một lớp vào tới ca? Thanh Hoá (Cửu Chân).


Nhưng họ chỉ là nhóm người thiểu số và bị đồng hóa, chứ họ chẳng phải là gốc tích tổ tiên Việt Nam như ông Léonard Aurousseau đã nêu ra. Ngoài ra, ông Lê Ngọc Trụ còn cho rằng(10), tổ tiên dân tộc Việt đã cư trú ở những vùng triền núi từ sông Đà (Hắc giang) tới Quảng Bình, sống chung hoà với dân tộc Mường. Cho nên đến ngày nay, tiếng nói ở những vùng này có nhiều chỗ tương tợ tiếng Mường.


Dân Mường là dân miền núi, cho nên họ rút lần rải rác vào sâu dãy Hoành Sơn, do đó họ không bị ảnh hưởng văn hoá của các đại cường quốc Ấn Tàu, và chính vì thế họ vẫn giữ được các cổ tục và tiếng nói của họ cũng không bị thay đổi nhiều. Nên khi so sánh hai thứ tiếng Mường Việt, ông cho rằng tiếng Việt và tiếng Mường có lẽ từ một nguồn gốc mà ra. Thí dụ:


Mường Thạch Bi | Hà Tĩnh | Hà Nội --------------------|-------------|---------- ka | Ga | Gà kảy | Gái | Gái kốk | kộk | Gốc kảw | Gạw | Gạo


Tiến sĩ Hương Giang Thái Văn Kiểm cũng có cùng quan điểm lập luận như giáo sư Lê Ngọc Trụ và cho rằng, dân Bách Việt phát xuất từ miền Duyên hải miền nam Trung Hoa và giống dân Lạc Việt sinh sống lâu đời tại đồng bằng miền Bắc Việt Nam hoàn toàn không cùng chủng tộc. Sau nhiều cuộc xung đột, hai giống tộc này đã chịu hòa đồng chung sống với nhau như một đại tộc. Về sau, người Mường, cũng là sắc dân Lạc, đã chạy vào ẩn núp trong núi rừng, cao nguyên, để tránh sự xâm lăng đô hộ của người Tàu.


Nhờ đó, họ vẫn giữ nguyên được ngôn ngữ, phong tục tập quán và kỹ thuật đúc trống đồng mà trước thời kỳ Bắc thuộc đã được đúc tại miền duyên hải Bắc việt và lưu vực sông Mã (nền văn hoá thạch khí Hòa Bình và Bắc Sơn với nền văn hoá đồng đen Đông Sơn). Do đó các nhà nhân chủng học cho rằng: '' người Mường là Tiền-Việt'' (proto Vietnamiens)(11) , vì trong ngôn ngữ, tục lệ có nhiều điểm tương đồng với người Lạc. Ông có tìm được bản văn Mường-Việt nói về sự tích của sông Pờ (sông Bờ, tức sông Hồng ngày nay) trong quyển Cours de Langue Annamite của A. Cheon, do nhà in F-h Schneider, xuất bản tại Hà Nội năm 1899-1901 (nguyên văn):

"Khây khước măng pâu pô. Khi trước nghe người ta nói rằng cỏ mống ông, thên hốp là rằng có một ông tên gọi là ông Tùng, mà cở hai bợ chồng; ông Đồng, mà cở hai bợ chồng nã rú ra tế nã lấp cải nó rủ nhau để nó lập cái ksông Pơ. Nã tan lẽ ksông sông Bờ. Nó toan lấy sông Pờ pao tất Thạch Bi. Bơ nã Bờ vào đất Thạch Bi. Vợ nó mê, ti lê ksú tê, nã lấp mới đi lấy đá, để nó lấp ksông.


Lòng klởi skinh tha sông. Lòng trời sinh ra mốch ông hốp là ông Sách; một ông gọi là ông Sắt; me thuỗng mê thếch pât bởi mói xuống mới thách vật với ông Tùng. Nã me pao lò, nã ông Đồng. Nó mới vào lò; nó tỏ ming nã pât ông Tùng đỏ mình nó mới vật ông Đồng. Ông Tùng mê chẩi hết mìng, ông Đồng mới cháy hết mình, mê chết. Cho đên cải ksông mới chết. Cho đến cái sông dỉ chăng lấp ản, mê dênh cải cấy chẳng lấp được, mới nên cái Thác pờ dỉ. Thác bờ ấỵ"

Đọc đoạn văn trên, ta thấy tiếng Việt được chuyển dịch xen kẽ lẫn vào bản văn tiếng Mường, rất tối nghĩa. Cho nên tôi mạo muội viết ra hai bản Mường và Việt rõ ràng để quí vị dễ đọc và so sánh:

Bản văn tiếng Mường:

"Khây khước măng pâu pô, cỏ mống ông thên hốp ông Đồng, mà cở hai bợ chồng nã rú ra tế nã lấp cải ksông Pơ. Nã tan lẽ ksông Pờ pao tất Thạch Bi. Bơ nã mê, ti lê ksú tê nã lấp ksông. Lòng klởi skinh tha mốch ông hốp là ông Sách me thuỗng mê thếch pât bởi ông Đồng. Nã me pao lò, nã tỏ ming nã pât ông Đồng. Ông Đồng mê chẩi hết mìng, mê chết. Cho đên cải ksông dỉ chăng lấp ản, mê dênh cải cấy cái Thác pờ dỉ."

Bản văn dịch sang tiếng Việt:

"Khi trước nghe người ta nói rằng, có một ông tên gọi là ông Tùng, mà cả hai vợ chồng nó rủ nhau để nó lấp cái sông Bờ. Nó toan lấy sông Bờ vào đất Thạch Bi. Vợ nó mới đi lấy đá, để nó lấp sông. Lòng trời sinh ra một ông gọi là ông Sắt mới xuống mới thách vật với ông Tùng. Nó mới vào lò, nó đỏ mình nó vật ông Tùng. Ông Tùng mới cháy hết mình, mới chết. Cho nên cái sông ấy chẳng lấp được, mới nên cái Thác bờ ấỵ"

Khi nhắc đến nguồn gốc của Việt ngữ, ông Phạm Thế Ngũ cũng có nêu giả thuyết là người Việt có cùng tông tổ với người Mường, vì các nhà khảo cổ, khi xét về phong tục, lịch sử cũng như ngôn ngữ của người Việt, đã thấy có rất nhiều điểm giống với người Mường. Hiện nay, trong tiếng Việt có rất nhiều tiếng tương tự với tiếng Mường, và có thể xem đó là hình thức tối cổ của tiếng Việt tương đương, thí dụ :(12)
một Hai ba trời đất núi sông trâu gà tằm ăn lá dâu móc Hai pa tlòy tất nủy không tlu kà thảm ăn lá tô

Thứ tiếng cổ ấy, về sau, trong ngôn ngữ người Việt, thâu nhận thêm những yếu tố vay mượn của các chủng tộc lân cận mà trở thành tiếng Việt. Và ông kết luận rằng: "dân tộc Việt Nam là kết quả tạp chủng và lai lẫn với các dân tộc đã sinh sống trên bán đảo Đông dương, và tiếng Việt là kết quả trại lẫn của nhiều thứ tiếng của các dân tộc ấỵ" (13)

Trong quyển Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam(14), ông Bình Nguyên Lộc đã có một số nhận định và chứng minh khoa học cụ thể về vấn đề nan giải nêu trên.

Theo ông, viết thượng cổ sử khác xa với viết sử. Vì viết sử chỉ cần sử liệu, còn viết thượng cổ sử thì cần phải chứng minh bằng khoa học, do đó muốn tìm tòi về các chủng tộc ta phải vận dụng kiến thức khoa học chính xác của ngành Chủng Tộc Học (Anthropologie physique). Riêng về nguồn gốc của một chủng tộc thì khoa học chỉ nhìn nhận 3 chứng tích sau:

1. Khoa Chủng Tộc Học
2. Khoa KhảoTiền Sử
3. Khoa Ngôn Ngữ Ty? Hiệu (Études comparatives des Langues)

Theo ông trên thế giới ngày nay không còn chủng tộc nào là thuần chủng. Ngay cả trên cao nguyên của nước ta có người Thượng mà ta cứ ngỡ là thuần chủng, nhưng thực sự họ đã lai giống đến nhiều lần rồi. Về vấn đề nguồn gốc dân Việt, ngôn ngữ Việt, từ lâu đã có những nhà bác học Pháp thuộc viện Bác Cô? Viễn Đông, các sử gia, ngữ học gia, giáo sư Việt Pháp khổ công tìm tòi nghiên cứu, nhưng vẫn chưa tìm được một giải đáp thoả đáng. Và họ đã đưa ra một số ức thuyết khá hỗn loạn:

o- Ông Kari Himy cho rằng tiếng ta có bà con với tiếng Môn

o- Ông H. Maspéso bo? Việt Ngữ vào chung với Thái ngữ

o- Ông E. Souvignet cho rằng tiếng Việt có liên hệ với Mã Lai

o- Bs. Reynand nhấn mạnh về ngữ vựng Miên Việt giống nhau quá nhiều

o- Gs. Lê Ngọc Trụ và Sử gia Nguyễn Phương khẳng định tiếng ta là tiếng Tàu

o- Sg. Phạm Văn Sơn kết luận Việt ngữ + Việt chủng là một chủng tộc, một ngôn ngữ riêng biệt


Từ năm 1920 nhờ những cuộc phát kiến ngẫu nhiên của dân chúng vùng Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa đã khai quật được một số cổ vật đồng pha kế tiếp nhau ở cách lưu vực sông Nhật Lệ, sông Gianh, sông Cả, sông Mã, sông Đà, sông Nhị, sông Lệ.

Nghiên cứu sơ khởi cổ mô. Đông Sơn, người ta tìm thấy người chết có đồ tùy táng, trong đó có trống bằng đồng thau khá rực rỡ. Ước tính theo số tuổi cổ vật, mộ này ắt đã được chôn trước thời Hai Bà Trưng (40- 43) đến 32 năm. Nhưng qua đó vẫn chưa xác định được người dưới mồ là người bản xứ, vì rất có thể họ là dân tộc khác sang nước ta rồi sau khi chết được mai táng tại đó.


Mãi về sau, khi khai quật được nhà bằng gỗ và tre đã hoá thạch, các nhà nghiên cứu khảo cổ đưa ra được một kết luận quan trọng. Nhà ấy có lối kiến trúc giống như hình nhà khắc trên trống đồng trong cổ mộ. Bấy giờ mới chắc chắn được là người có trống chôn theo là người bản xứ. Hợp kim của trống khai quật được phân chất và kết quả đưa ra đó là hợp kim đặc biệt, khác hẳn với hợp kim của Tàu, Ấn Độ hay của Tây phương thời đó.


Các nhà bác học gọi người trong mộ táng được khai quật thuộc chủng tộc Indonésien. Indonésien, thuật ngữ của ngành Chủng Tộc học có nghĩa là Cô? Mã Lai, chứ không thuần nghĩa thông thường được chú giải trong các tự điển ngôn ngữ hiện nay là người dân của xứ Nam Dương quần đảo. Mặc dù các dân tộc Nam Dương, Mã Lai Á đều từ gốc chủng tộc Cô? Mã Lai mà ra nhưng đã không còn thuần giống.

Chủng Cô? Mã Lai phát tích từ Tây Tạng, hay nói rõ hơn là tại chân cao nguyên Tây Tạng, vùng đất quanh chân núi Himalaya (Hi-Malaya có nghĩa là núi của người Malaya).


Từ 6000 năm trở về xưa hơn, dân Cô? Mã Lai từ quanh cao nguyên Tây Tạng xuống chiếm đất Ấn Độ, đẩy lui thổ dân kém cỏi nơi đó lên vùng đồi núi và hợp chủng với chủng tộc Melanésien đã có mặt từ lâu trên đất Ấn (Chủng Melanésien chẳng những là thổ trước trên đất Ấn mà còn tìm thấy di tích ở khắp đất Trung Hoa và Đông Nam Á). Nền văn minh của họ tồn tại được một ngàn năm thì bị dân Aryen xâm lăng đánh đuổi.


Vì vậy, một mặt giống dân Indonésien di cư về hướng Nam, đến bán đảo Mã Lai Á, sang Nam Dương quần đảo, rồi từ đó sang Madagascar đến tận Phi Luật Tân. Mặt khác họ di dân sang Đông Ấn, rồi từ Đông Ấn họ đi sang Hoa Nam (Trung Hoa), hoặc đi bằng đường biển sang Đông Pháp (danh từ cổ chỉ các nước Cô? Việt Nam, Ai-Lao, Cao Miên).

Vào khoảng 2500 năm sau, dân từ các vùng đất quanh núi Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya) dưới sự thống lãnh của Xy Vưu tới Hoa Bắc (Trung Hoa). Nhóm dân này được gọi là Cửu Lê gồm 9 nhóm, làm bá chu? Hoa Bắc không được bao lâu thì bị người Tàu từ Tây Bắc dưới quyền của Hiên Viên xâm nhập. Dân Cửu Lê thua và bị đánh đuổi, chia làm hai: chi Âu và chi Lạc. Toàn thể chi Âu vượt Hoàng Hà để nam thiên, còn chi Lạc thì lại chia hai, một số cũng vượt Hoàng Hà, số kia theo đường biển sang Đại Hàn, Nhựt Bổn, Đài Loan và Đông Nam Á. Rời đồng bằng Hoa Bắc thì dân chi Âu chiếm địa bàn núi rừng ơ? Hoa Nam , còn dân chi Lạc thì chiếm địa bàn sông ngòi ơ? Hoa Nam và ở các vùng đất mới.


Nơi đây, họ đã gặp các dân thổ trước nhưng đồng chủng cho nên đã sống chung hòa không gây chiến tranh lấn đất. Người Tàu dùng danh từ Việt để chỉ bất kỳ thổ dân nào từ sông Dương Tử đổ xuống, tức nhiều nhóm dân gốc Cô? Mã Lai nhưng khác chi. Theo sư? Tàu thì có ba nhóm Lạc: Lạc bô. Trãi bị gọi là rơ. Đông Di, có địa bàn ở sông Bộc, tỉnh Sơn Đông lên đến Hà Bắc; Lạc bô. Chuy bị gọi là rơ.


Khuyển Nhung, có địa bàn vùng sông Lạc (Thiểm Tây Ba Thục, ngày nay con sông Lạc này được đổi viết thành bô. Thủy); và Lạc bô. Mã, bị gọi là rơ. Nam Man chỉ dân Việt ơ? Hoa Nam. Về phía Nam, đất Ngũ Lĩnh là địa bàn của các quốc gia Bách Việt trong đó có Đông Âu, Mân Việt và Tây Âu nhưng không có Cô? Việt. Mặc dù về mặt chủng học tộc, ta thuộc về Bách Việt nhưng không phải là dân của ba nước kể trên.


Trong ba nước này, Tây Âu là một quốc gia cường mạnh nhất, gồm ba quận Nam Hải (Quãng Đông), Quế Lâm (Quãng Tây) và Tượng Quận (phần đất giữa Quãng Tây và Vân Nam). Theo bức dư đồ ngôn ngữ Ethnolinguistico Groups of Mainland Southeast Asia do Human Relations Area Files Yale University xuất bản thì Tây Âu là địa bàn của người Thái, một dân tộc thuộc chủng Mã Lai mà người Tàu xưa gọi là dân Âu.

Thái là một danh tự xưng của họ khi bi. Hoa tộc lấn đất dữ dội.

Nhà Tần tiêu diệt cả ba quốc gia Bách Việt này và họ lại phải nam thiên xuống thượng du Bắc Việt và Thái Lan ngày nay. Thái có nghĩa là '' tự do, thoái khỏí'.


Trước đó họ xưng là Ngu hoặc Ngê-U. Tiếng Quan thoại phiên âm danh tự đó cũng là Ngê-U. Duy chỉ các nhà nho đọc sai ra là Âu, chứ người Mường họ vẫn đọc đúng là Ngu. Người Thái ở miền thượng du Bắc Việt ngày nay đã khác hẳn với người Thái Lan, vì ngưởi Thái Lan đến bờ biển lập quốc cả hàng trăm năm và theo văn hóa của Ấn Độ và Phật giáo.


Còn người Thái thượng du Bắc Việt còn giữ nguyên văn minh cổ thời của họ. Theo như trên thì truyền thuyết Âu Cơ và Lạc Long Quân rất tương đồng với bối cảnh lịch sử của dân Cửu Lê, khi bi. Hiên Viên xâm lăng thì phải chia hai, chi Âu chiếm địa bàn núi rừng (Âu Cơ là Tiên đem con lên núi) và chi Lạc chiếm địa bàn sông ngòi, ven biển (Lạc Long Quân đem con xuống biển).


Cả ba Lạc này đều có mặt tại Cô? Việt Nam nên ngôn ngữ của ta mới hỗn hợp tiếng Mã Lai nhiều đợt. Địa bàn phương đông của chủng dân Cô? Mã Lai bị dân Tàu lấn đất, họ đành phải nam thiên. Tới vùng đất mới, họ lại bi. Tàu xâm lăng lần nữa, chẳng hạn như ơ? Cô? Việt bị nhà Hán chinh phục. Lần bị chiếm đất này, họ không còn đất lánh thân, nên một số ở lại chịu văn hóa Tàu, còn một số khác rút lên rừng núi, rồi vì khí hậu và phong thổ không ưu đãi, thiếu thốn phương tiện canh tân nên nhóm người này bị thái hóa.


Do đó người Thượng trên cao nguyên vẫn còn giữ nhiều phong tục văn hóa của chủng Cô? Mã Lai hơn dân ta, kẻ ở lại đồng bằng đã khác xa, nhất là khi bị ảnh hưởng văn hóa mới và hợp chủng với dân xâm lược.

Sau đây là những dấu vết Mã Lai còn sót lại trong xã hội Việt Nam ngày nay:

1. Trống Đồng:

Dân ta vẫn duy trì phong tục của Lạc Việt, như tả nhậm, xâm mình, nhuộm răng, búi tóc, chít khăn, tục thờ thần Âm Dương Vật và cả tục thờ Thần Trống Đồng.



Sau thời gian dài nghiên cứu về thời đại đồng thau xưa ơ? Bắc phần Việt nam các nhà khảo cổ cho thấy rằng người Việt Nam thời xưa đã đạt được một trình độ luyện kim và chế tác kim loại khá cao để đúc được nhiều loại trống đồng. Do số lượng trống đồng tìm thấy được tại miền Bắc Việt Nam quá nhiều và đủ loại cho nên các nhà khảo cổ đã nghĩ rằng Việt nam phải là quê hương của trống đồng.


Tuy rằng cũng có tìm được một vài trống đồng rải rác tại vài nước Đông Nam Á hoặc vùng Nam Trung Hoa giáp ranh giới Việt Nam nhưng số lượng ít ỏi và kém mỹ thuật, nhất là các tầm vật này nằm trên những lộ trình xuyên biên giới Việt-Hoa, nên đã làm các nhà khảo cổ nghĩ rằng đó có thể là những trống thâu lượm từ Việt Nam đem về.



Trong sách Đại Nam Nhất Thống Chí(15)ghi: "Núi Đồng Cổ: có tên nữa là núi Kha? Lao ở cách huyện Yên Định 16 dặm về phía tây .... Phía tả núi có đền thần, trong đền có một cái trống bằng đồng, nặng chừng 100 cân, đường kính phỏng 2 thước một tấc, chiều cao phỏng 1 thước 5 tấc, một mặt trống rỗng, một mặt có chín vòng tròn, ở giữa mặt trống có rốn tròn, chung quanh lưng trống là hình hồi văn chữ 'vạn', bên cạnh có văn chữ như hình văn tự khoa đẩu. Tương truyền cái trống này chế từ đời Hùng Vương. "

Trong tác phẩm Kiến văn Tiểu Lục, Lê Quí Đôn đã viết như sau: "Nước nhà, vua Thái Tông nhà Lý dựng miếu thờ Thần Đồng Cô? Sơn ở đằng sau chùa Thành Thọ. Hằng năm cứ đến ngày mồng bốn tháng tư lập một đàn ở trước miếu này, rồi dàn binh lính, đọc lời thề để quần thần cùng thề... ".

Nhiều thư tịch Trung Hoa xưa cũng có nói đến trống đồng có nguồn gốc ơ? Việt Nam như :(16)

o- Sách Bách Việt Nguyên Lưu Dư Văn Hóa, Lã Hương Lân ghi: "Thời cổ, văn hoá Việt rất đáng được lưu ý là sự chế tạo trống đồng và cách sử dụng. Trống đồng Lạc Việt rất nổi tiếng nên thường được gọi là Lạc Việt đồng cổ.Ỳ o Sách Hậu Hán Thư quyển 54 thời Hậu Hán có ghi ở mục Mã Viện:

"Mã Viện thích cưỡi ngựa. Lúc sang đánh Giao Chỉ, ra lệnh tịch thâu trống đồng để đúc ngựa kiểụ"

o- Sách Chu Phiên Chí, Triệu Như Quát cũng có kể về Mã Viện như trên.

o- Sách Lĩnh Ngoại Đai Đáp, Chu Khứ Phi, một học giả đời Tống, có thừa nhận rằng trống đồng không thuộc về văn hóa Hán.

o- Trong các sách Quảng Châu Ký, Tán Thư Trấn Thủ, Thủy Kinh Chú, Linh Biểu Lục Di đều có ghi: "Man, Di là chủ nhân của trống đồng Lạc Việt."

Ông V. Goloubew đã kể lại trong tập kỷ yếu B.ẸF.ẸO vol XXXIII, năm 1933 như sau: "Làng An-Nê, huyện An Định, tỉnh Thanh Hóa, là một vùng hoàn toàn Việt Nam, và gần đó không có dân Mường. Trong đền thờ trên đường Phu? Quãng, gần bến đò An Định đưa sang sông Mã, có trống đồng cùng loại với trống đồng Hoà Bình để ơ? Bảo tàng viện Hà Nội. Mặt trống rộng 0,85 và cao 0,58th. Trống này chỉ để thờ chứ không được đánh, bằng vào lớp bụi dày trên mặt trống..."

Ông R. Mercier thì đối chiếu cách chế tạo trống đồng của dân Đông Sơn với cách chế tạo đồng đồng của dân Việt Nam ngày nay ơ? Thanh Hóa, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hà Đông, Nam Định và thấy cả hai dân tộc đều dùng kỹ thuật và dụng cụ thô sơ y như nhau. Ông nghiên cứu chiếc trống lớn nhất ở bảo tàng viện L. Finot. Đó là một cái trống đúc nguyên khối, không có ráp mối. Bên hông trống đếm được cả thảy 280 vết đen hình vuông, một phân tây mỗi cạnh.


Nhờ đó ông khám phá được kỹ thuật đúc trống thơ. Đông Sơn xa xưa. Họ làm hai cái khuôn, một lớn một nhỏ, cái nhỏ nằm trong cái lớn, hai cái cách nhau khoảng 1/2 một phân tây, khoảng trống ấy được chêm bằng các khúc gỗ. Khi đổ đồng pha vào khoảng trống ấy, gỗ chêm bị cháy và để lại dấu vết bên hông trống. Ông Mercier nói rằng chỉ có dân Việt Nam các tỉnh cao nguyên mới đúc bằng kỹ thuật và dụng cụ thô sơ như thế mà thôi.

Về vấn đề vật tổ biểu tượng của dân Việt là chim Lạc (theo ông Đào Duy Anh đưa ra) thì ông Bình Nguyên Lộc không đồng ý, vì chữ Lạc được viết với dạng bô. Trãi, bô. Chuy và bô. Mã chứ không hề viết theo dạng bô. Điểu, chỉ loài chim. Theo ông thì vật tổ biểu tượng của dân ta ngàn xưa là cây cau, nai, mặt trời, giao long bằng cứ vào những hình chạm khắc trong các đền đài chùa chiền, trên các cổ vật Đông Sơn, phong tục, cổ tích vv... Danh hiệu Văn Lang cũng từ đó mà ra, có nghĩa là một loại cau có sọc trắng, chứ không thuần nghĩa là người con trai xâm mình.

2. Kiến trúc:

Ngôi nhà cô? Việt độc nhất, do ông Pajot nhân viên của viện Viễn Đông Bác Cổ tìm được tại bờ sông Mã năm 1927, nhưng mãi đến 17 tháng Giêng 1938, nhà khảo cô? V. Goboulew mới báo cáo trong một buổi thuyết trình. Có sự chậm trễ đó cũng bởi vì ông gặp khó khăn trong việc định tuổi cho các vật liệu dùng làm căn nhà. Và căn nhà đó được định cùng tuổi với ngôi mộ cổ đã khai quật.

Đó là một nhà sàn có cột cái cao 4,50 thước, sàn cao 1 thước. Mái nhà dài xuống tới sàn, và vì thế mà cửa phải trổ ra ở góc hồi. Sàn bằng tre sặt, một loại tre giống tầm vong ở miền Nam. Sườn nhà không có trính ( loại sườn nhà mà miền Nam gọi là nọc ngựa, miền Trung gọi là nhà chữ Đinh). Hình dáng ngôi nhà này giống nhà khắc trên trống đồng có mái cong quớt lên và đó là lối kiến trúc của tất cả các nhóm dân Cô? Mã Lai và Kim Mã Lai.

Ngày nay nông dân ở nhiều đảo Nam Dương vẫn còn cất nhà như vậy, và người Chàm, cũng gốc Mã Lai, giữ lối kiến trúc đó cả đến trong những xây cất bằng gạch. Loại nhà đó người Chàm gọi là nhà Thang-giơ. Danh từ Thang-giơ do tiếng Mã Lai Nam Dương Tanga mà ra, có nghĩa là cái thang. Dân Việt gọi đó là nhà sàn.

3. Tín ngưỡng

Có rất nhiều nhóm Mã Lai thờ mặt trời hoặc ông trời. Ngay ca? Mã Lai Nhật Bản cũng thờ nữ thần Thái Dương. Tất cả đều ăn khớp với hình trên mặt trống đồng. Tục thờ dương vật và âm vật của chủng Mã Lai vẫn còn tồn tại ở vài làng Bắc Việt (báo Ngày Nay, tác phẩm của Toan Ánh và Lê Quang Nghiêm). Tôn giáo ấy chẳng những được thấy ơ? Bắc Việt mà còn có cả ơ? Trung Việt. Ngay cả bên Nhật ngày nay vẫn còn giữ tín ngưỡng này.

4. Đối chiếu chỉ số so.

Dựa theo chỉ số sọ rút từ quyển État actuel de la crânologie indochinoise của các bác sĩ P. Huard, F. Saurin, Nguyễn Xuân Nguyên, Nguyễn Văn Đức - Hà Nội 1938 - thì các dân tộc gốc Mã Lai đều có chỉ số sọ trên 80, như Mã Lai, Thái, BắcViệt, Cao Miên và Đại Hàn, ngoại trừ Nhật Bản, Mường và người Thục. Chỉ số sọ của người Tàu thì luôn luôn dưới 80.

Người Nhật có chỉ số sọ thấp nhất trong các nhóm Mã Lai Bách Việt chỉ vì họ bị lai giống với Tàu quá nhiều. Người Mường mặc dù họ là Cô? Mã Lai như tất cả các phụ nữ và bần dân lại thuộc chủng Melanesien, chỉ trừ các đàn ông cấp lãnh đạo, do đó chỉ số sọ trung bình của họ không giống chỉ số sọ trung bình của người Bắc Việt Nam.

Người Thục có chỉ số sọ rất giống chỉ số so. Trung Hoa, mặc dù họ thuộc chủng Thái. Cũng chỉ vì họ đã lai giống với Tàu trên cả hai ngàn năm rồi.

Chỉ số sọ của người Việt miền Nam thấp hơn chỉ số sọ của người Việt miền Bắc, chứng tỏ rằng người Việt miền Nam lai Tàu nhiều hơn người Việt miền Bắc.

5. Ngôn ngữ tỷ hiệu

Theo ông Bình Nguyên Lộc thì một số danh từ Mã Lai trong ngôn ngữ Việt không phải là vay mượn hiển nhiên của các dân tộc khác như Chàm, Miên, Mường, Thái mà do từ gốc Cô? Mã Lai mà ra. Ông thẳng thừng bài bác lập luận cho là tiếng Việt là tiếng Tàu của sử gia Nguyễn Phương. Trong quyển Việt Nam Thời Khai Sinh, trang 230, sử gia Nguyễn Phương viết: "Hầu như có thể nói được rằng tiếng Việt Nam ngày nay, sau 10 thế kỷ độc lập, vẫn còn chính là tiếng Tàu, nhưng chỉ đọc lên một cách hơi khác với cách đọc của những tiếng địa phương ơ? Trung Quốc.


Cố nhiên, trong Việt ngữ, đôi khi có xen vào đôi số những tiếng không phải gốc Tàu, như tiếng Mọi, tiếng Chàm, những hiện tượng đó không nói lên gì khác ngoài sự người Việt Nam trên đường bành trướng, đã có gặp người Mọi người Chàm, cũng một cách như họ đã gặp người Pháp trong thế kỷ qua và họ đã thâu nhận một số tiếng Pháp trong kho ngôn ngữ của họ".

Nhưng theo ông Bình Nguyên Lộc thì nếu đã phải vay mượn của Tàu thì tựu chung ta chỉ vay mượn những tiếng chỉ những ý niệm phức tạp, những dụng cụ lạ, vật dụng lạ. Như danh từ nước là một danh từ tối quan trọng để chỉ chất mà ta dùng hàng ngày để sống đã được sử dụng để gọi từ ngàn xưa, vậy thì sao ta không dùng chữ thủy của Tàu.

Vả lại với thiên kiến của một nước luôn tự hào là văn minh và xem cái gì của họ đều hơn của Man di cả, nhất là vấn đề ngôn ngữ, thì tất nhiên những danh từ như Lá, Trăng, Ngựa, Chòi, Túp, Cơm, Trâu, Cá, Bông, Chim, Vua, Cây dừa vv... ta phải nhất nhất dùng chữ Tàu, không nên vay mượn chữ của Mọi làm chi. Do đó chỉ có một cách trả lời là nó xảy ra thời thượng cổ, lúc hai dân tộc còn là một, tức ta với họ đồng chủng với nhau.

Điều này ông đã chứng minh khi đối chiếu các danh từ Việt với các dân tộc chủng Cô? Mã Lai, nếu ta không giống Chàm thì cũng giống Khơ Me, không giống Khơ Me thì cũng Thái, không giống Thái thì cũng giống người Thượng. Tóm lại danh từ Việt thế nào cũng giống danh từ của nhóm dân cùng chủng Cô? Mã Lai nào đó.

Sau đây là một số bản đối chiếu ngôn ngữ rút ra từ quyển NGMLCDTVN của ông:

Việt Nam : Cá Sơ Đăng : Kaa Mạ : Ká Chàm : Kán Mã Lai : Aka

Việt Nam : Cột Sơ Đăng : Kơt Bà Na : Kơơt Chàm : Kaat Mã Lai : Ikaat

Việt Nam : Mắt Sơ Đăng : Mat Mạ : Maht Chàm : Kán Mã Lai : Mata

Việt Nam : Mặt trăng Bà Na : Mạt tlăng Mạ : Maht kăn Chàm : Blaăng Mã Lai : Bulăng

Việt Nam : Sông Chàm : Krong Mường : Không Bà Na : Krông Mã Lai : Sôngai

ViệtNam : Trái (blái) Mường : Blái Bà Na : Plây Sơ Đăng : Plây Thai : Pho la

Việt Nam : Cháu Bà Na : Saò Mạ : Sáu Mường : Cau Mã Lai : Chu

Việt Nam : Chim Sơ Đăng : Chim Mường : Chim Bà Na : Sêêm KhảLáVàng : Tiêm

ViệtNam : Con (cái) Mường : Kon Bà Na : Koon Sơ Đăng : Kooon Cao Miên : Kôn

Việt Nam : Con (vật) Bà Na : Ko Mạ : Ko Cao Miên : Ko Mường : Ko

Việt Nam : Ngày Cao Miên : Thngay Mường : Ngai Sơ Đăng : Haai Môn : Tngay

ViệtNam : Con ruồi Mạ : Ko Rhai Bà Na : Ko Rooi Mường : Ko Ruuêi Cao Miên : Ko Ruy

Ngoài ra, ông cũng khám phá ra khá nhiều điều lý thú trong ngôn ngữ như:

Người Mường có danh từ Khai để chỉ con chó, đồng thời lại có nghĩa là con cọp. Theo cố đạo L. Cadière thì tiếng Việt xưa cũng gọi con chó là Khai, hình thức cổ sơ của danh từ con Cầy. Danh từ Bố Cái Đại Vương, Cái là danh từ Mã Lai, có nghĩa là ông cha hùng mạnh, ông cha thủ lãnh. Hiện nay Mã Lai vẫn còn có danh từ Ibu Láki, đúng nghĩa Bố Cái, vì Ibu=bố, Láki=Cái, Ibu Láki có nghĩa là nhà lãnh đạo.

Danh từ Láki của Mã Lai biến thành Lìcáy của Chàm và Cái của Việt. Danh từ riêng của miền Nam "người lại cái", có nghĩa là bán nam bán nữ, chắc chắn là do danh từ Chàm mà ra, đó là "Càmay lagi lìcáy" dịch ra là "đàn bà lại còn đàn ông". Ta nuốt mất chữ Càmay lagi, chỉ còn Lìcáy biến thành Lại Cái. Hiện nay người miền Nam vẫn thường nói sai là "đàn ông lại cái", chỉ vì họ không rõ căn nguyên và lại hiểu sai chữ Cái là Đàn bà. Ngay cả danh từ Thơ. Cái, Sông Cái, hoặc trong lúc chơi bài bị bắt làm Cái cũng đồng nghĩa nêu trên.

Người Việt miền Nam thường dùng chữ Tía để chỉ người cha. Đó là danh từ Tia của dân Thất Mân, Mã Lai đợt II. Các đảo Mã Lai đều nói là Tưa, có nghĩa là cha vợ, chứ không phải là Cha như người Việt miền Nam đã dùng sai.

6. Đồng bào Mường

Gọi là đồng bào, bởi vì theo ông Bình Nguyên Lộc rằng khoa học đã nhìn nhận rằng dân tộc Mường là Indonesien (Cô? Mã Lai) từ hơn thế kỷ nay, và ông đã chứng minh là dân ta cũng là gốc Mã Lai thì họ và ta là đồng bào rồi vậy.

Để viết về dân Mường, ông đã chọn tài liệu chủ lực cho sự nghiên cứu của ông, một cuốn sách mà ông thấy là đầy đủ nhất về dân tộc này, đó là quyển Les Mường, Géographie humaine et Sociologie của cô Jeanne Cuisinier do Viện Dân Tộc Học, Bảo Tàng Viện về Con Người xuất bản tại Paris năm 1946.

Như trong phần đo chỉ số của các giống tộc ở trên, người Mường không thuộc chủng Mã Lai mà lại thuộc chủng Thái, trong khi họ có ngôn ngữ rất gần với ta. Cô J. Cuisinier cho biết rằng quí tộc Mường, gia đình và họ hàng của các quan Lang, các thổ đạo, các hương chức hội tề thì xinh đẹp như người Việt. Còn bần dân và tất cả phụ nữ, kể cả phụ nữ thuộc hàng quí phái cũng bé choắt và xấu xí.

Ông Bình Nguyên Lộc giải thích rằng người Mường là quí tộc Lạc Việt từ Hoa Nam nam thiên cho nên không mang đàn bà theo kịp, họ đến đây hợp chủng với dân Melanésiens da đen xấu xí và lãnh đạo dân Melanésien cho đến ngày nay. Vào thời thượng cổ, khi mà một cuộc di cư lớn lao xảy ra thì đa số phụ nữ bị bỏ rơi, hoặc yếu sức chết dọc đường. Cho nên khi đến địa bàn định cư, đàn ông goá vợ hay thanh niên thì lấy dân thổ trước làm vợ. Chính vì thế mà phụ nữ của họ mới không đồng chủng với họ.

Xét về ngôn ngữ thì văn phạm của hai dân tộc Mường và Việt giống hệt nhau:

Tiếng Việt

Ba hồn bảy vía con đùa (con trai), con gái, đâu đi về cùng bố, cùng mẹ, ăn cơm, ăn cá |

Tiếng Mường

Pa hồn pải piái on tứa, on kai, no tỉ vên kung pô, kung mè, ăn kơm ăn ka

Bố ơi chết bỏ ta làm sao vậy, thân mình ăn đâu ở đâu bố ơi

Pô ơi kết bô ta la no pò, thân hò ăn no ở no pô ơi!

Ăn ra khói nói ra lửa Ăn za khuê nói za lửa

Để cho quỉ xa ma sơ. Tê co kwi sa ma đượi

Vía lúa ơi, về đụn về về nhà mà ơ? Piái ló ơi, vên tun vên nhà ma ở!

Cơm như vàng ròng Kơm như yang rong

Danh từ Vua, thì họ nói là Bua. Trời, thì họ nói là Blời. Các cố đạo ngày xưa tại Việt Nam cũng viết là Bua, Blời, không phải vì các ông không biết âm Tr, mà bởi vì thuở đó ta cũng giống dân Mường đều không có âm Tr. Trái cây họ đọc là Tlai kây, Trái ngang họ nói là Plái ngang, Trâu họ kêu là Tlu vv...

Ngoài ra, trên mặt các trống đồng khai quật có khắc bộ hình một số người cầm gậy thọc xuống một vật mà đa số các nhà bác học Âu Châu cho rằng đó là động tác giã gạo. Nhưng nhà khảo cô? Lê Văn Lan đã lên xứ Mường và đã thấy người Mường ngày nay vẫn còn đánh trống như vậy, tức dùng gậy thọc xuống mặt trống. Cô J. cuisinier còn viết rằng cô đã thấy toàn thể người Mường nhuộm răng đen, một số xâm mình, toàn thể ăn trầu, họ có đồng bóng và có sử dụng trống đồng loại lớn. Loại trống này chỉ có các quan Lang mới có và số tia của ngôi sao trên mặt trống càng nhiều thì tỏ rõ thế lực của ông quan Lang ấy, thông thường chỉ có 7,8 tia mà thôi.

Nói tóm lại, những giả thuyết, những lý luận mà các nhà ngữ học, bác học, sử học, nhân chủng học ngoại quốc cũng như người Việt nêu trên đã cho ta nhiều điều lý thú về nguồn gốc dân tộc cũng như nguồn gốc tiếng Việt. Qua đó, quí vị có thể tự suy ra kết luận hay ít nhiều cũng tạo hứng khởi trong việc tìm về nguồn cội văn hóa nước ta.

Tĩnh Túc thanh.nguyen@student.uni-ulm.de
Chú thích:

(1) Việt Nam Quốc Sư? Diễn Ca, Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, tr.48

(2) Việt Nam Sư? Lược, Trần Trọng Kim, tr. 11-12, Anh hùng nước tôi, MTQGTNGPVN, tr. 43

(3) Việt Nam Tinh Hoa, Thái văn Kiểm, tr. 36

(4) Việt Nam Tinh Hoa, Thái văn Kiểm, tr. 146 - 147

(5) Việt Nam Sư? Lược, Trần Trọng Kim, tr. 5

(6) Nguồn gốc dân tộc Việt Nam, Đào Duy Anh, 1950.

(7) Tầm Nguyên Tư. Điển, Lê Ngọc Trụ, tr. 11

(8) Nam Phong, số 110, tháng 10 năm 1926

(9) Tầm Nguyên Tư. Điển VN, tr. 12

(10) Chánh ta? Việt Ngữ, tr. 19

(11) Việt Nam Tinh Hoa, tr. 100-101, tr. 155-158

(12) mượn của A. Chéon trong Note linguistique sur les Muong, BEFFEO, T5, tr, 338-339

(13) Tầm Nguyên Tư. Điển, Lê Ngọc Trụ, tr. 13

(14) Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam - Xuân Thu xuất bản

(15) Đại Nam Nhất Thống Chí - Quốc Sứ Quán Triều Nguyễn, quyển 2, tr. 255, 288

(16) Mượn của Phan Hưng nhơn, Diễn Đàn Phu. Nữ 183 - 1999, trong bài "Nhìn lại nền văn hoá Đông Sơn để nhó lại nguồn gốc của Trống Đồng".


Tĩnh Túc

http://p083.ezboard.com/fvietthingstailieu.showMessage?topicID=23.topic

Có Cần chuẩn bị cho hôn nhân không?



Bài 2 :
Saigon Ngay 01 Thang 09 Nam 2005



Có Cần chuẩn bị cho hôn nhân không?

Chuẩn bị những gì và chuẩn bị như thế nào?

“ Tình chỉ đẹp khi còn dang dở, Đời mất vui khi đã vẹn câu thề”



Một nhạc sĩ nào đó đã sáng tác ra bài hát ấy, nghe buồn man mác và gây cho tôi thắc mắc khôn nguôi. Chẳng phải khi người ta yêu nhau, thề nguyền kết tóc xe duyên với nhau là đẹp lắm sao! Không phải yêu nhau mà giữ vẹn “ lời thề” là tốt đẹp sao!
Vậy tại sao đời không còn vui khi lời thề đã được thực hiện?
Hay người nhạc sĩ này có gì đó khác hơn so với cảm nhận của người thường? Nhạc sĩ cảm nhận theo những biến chuyển của tâm hồn và việc cảm nhận của họ dẫn đến tác phẩm là những gì họ đã cảm nghiệm qua chính cuộc sống hiện tại.




Điểm hẹn của tình yêu là Hôn nhân. Một tình yêu trọn vẹn nhất định phải tiến đến hôn nhân. Bước vào hôn nhân là đối mặt với nhiều khó khăn thử thách, thế nhưng người ta vẫn đấu tranh để được đi đến hôn nhân với mong muốn sống bên nhau trọn đời.




Vậy thiết nghĩ cuộc sống hôn nhân mà bao nhiêu trai gái yêu nhau hằng mong ước phải được chuẩn bị tốt như thế nào để người ta có thể cảm nhận và hát lại câu hát kia rằng: “ đời mãi vui khi đã vẹn câu thề




Tôi vẫn hỏi người tôi yêu “ tại sao anh chọn em?”




Tại sao anh yêu em khi bên cạnh anh có nhiều phụ nữ khác hơn em về mọi mặt, họ đẹp hơn, thông minh hơn .v..v?”…
Người yêu tôi trả lời “ Anh yêu em vì những tính tốt và tính xấu của em anh có thể chấp nhận được, anh chỉ mong khi anh gặp em, em là màu đen thì hãy cứ giữ màu đen ấy đến suốt đời và những gì ban đầu anh gặp em, xin em sau này đừng bao giờ thay đổi cho đến khi chúng ta nhắm mắt lìa đời”.
Khi tôi nghe như vậy tôi thầm nghĩ “ thật chẳng khó để làm điều đó”.




Nếu bạn là tôi chắc chắn bạn cũng nghĩ như tôi đúng không bạn? Nhưng đó chỉ là lời nói, còn việc thực hiện được hay không thật khó khăn. Tôi vẫn nhớ lời nói vui của một vị giảng viên nói với chúng tôi: “khi các bạn yêu nhau, các bạn nói với nhau bằng lời nói của những nhà ngoại giao, bạn nhìn cặp mắt của những người say rượu”.
Đúng thật là như thế.




Khi yêu bạn chỉ có vài tiếng bên người yêu bạn, hoặc chỉ vài ngày bên nhau thì làm sao bạn biết được tính xấu và tính tốt của nhau. Khi bạn kết hôn, bạn sẽ phải ở bên chồng hoặc vợ bạn cả ngày, gặp nhau hai mươi bốn tiếng, nhìn mặt nhau hết ngày này tháng nọ, hết năm này qua năm khác mà không bao giờ được “ phân ly” thì bạn sẽ nghĩ gì???
Nếu bạn chuẩn bị tốt cho hôn nhân, bạn sẽ vui vẻ vượt qua hằng ngay bên nhau, còn nếu bạn không chuẩn bị tốt cho hôn nhân bạn, bạn sẽ không thể đối mặt với cuộc sống ganh đua, suốt ngày với cơm, áo, gạo, tiền.




Bạn mua bất kỳ món hàng nào bạn cũng chọn lựa thật tốt, ngã giá và xem xét cẩn thận, vậy mà bạn chọn người sống suốt đời với mình bạn lại vội vàng không chuẩn bị sao???
Tôi tin chắc ai trong chúng ta cũng muốn có được một mái ấm gia đình hạnh phúc, không ai trong chúng ta muốn điều bất hạnh đến với mình. Muốn như vậy bạn nhất định phải chuận bị thật tốt cho hôn nhân của chính bạn.




Cần chuẩn bị gì cho cuộc sống hôn nhân và chuẩn bị như thế nào đó là câu hỏ i đặt ra cho mỗi người chúng ta khi bước vào đời sống hôn nhân.


Theo sự hiểu biết của tôi, điều tối thiểu chúng ta cần chuẩn bị :


Một vật chất tạm đủ cho cuộc sống lứa đôi và một tinh thần yêu thương nhau luôn có Chúa chúc phúc.


Bạn cần có một sức khỏe đủ để tạo ra vật chất nuôi sống bạn và gia đình bạn, sức khỏe đảm bảo cho cuộc sống gia đình hạnh phúc hơn.


Bạn nên có một nghề nghiệp ổn định để không làm gánh nặng cho chồng hoặc vợ bạn. Khi đã kết hôn bạn có nghĩa vụ và trách nhiệm nuôi dạy con cái cùng với người phối ngẫu của bạn.
Chia sẻ trách nhiệm tài chánh không còn là nhiệm vụ của những người chồng như quan niệm của ông bà trước kia, ngày nay trách nhiệm ấy cần có sự đóng góp của ca hai người.


Bạn cần trang bị cho mình một trình độ học vấn và đạo đức tốt. Bạn cần có kiến thức đủ để chăm sóc cho con và chồng hoặc vợ bạn. Cần học hỏi và hiểu biết để chia sẻ những sở thích giữa vợ chồng với nhau, cần có kiến thức đôi chút để giáo dục con cái.


Khi chọn người bạn đời nhất định phải chọn người đã trưởng thành về mặt nhân cách, nghĩa là người hiểu biết và chịu trách nhiệm những hành động, lời nói của mình. Khi đã là vợ chồng nhất thiết phải tôn trọng nhau từ lời ăn, tiếng nói. Và luôn cố gắng giữ những gì tốt đẹp đã có với nhau từ ban đầu.




Khi bạn chuẩn bị tiến đến hôn nhân, bạn nên hiểu không phải hai người tính tình giống nhau, cả hai cùng thích một món ăn hay đam mê một cái gì đó là có thể chắc chắn sống với nhau trọn đời. Người ta thường nói “ yêu nhau là cả hai cùng nhìn về một hướng” chứ không phải cùng chung sở thích hay tính tình giống nhau là được.

Bạn phải hiểu “ đàn ông sao hỏa - đàn bàụ sao kim
- Men are from Mars, women are from Venus –Đây là cuốn sách viết về Tình yêu – Hôn nhân của tác giả: JONH GRAY


http://www.eaglestalent.com/speaker-bureau,73,presenter,speaker.asp


Tình yêu – Hôn nhân J/khttp://ngocbichle.blogspot.com/2005/09/tnh-yu-hn-nhn.html


“Người sao hỏa đánh giá cao sức mạnh, năng lực, hiệu qủa và thành tích.
Họ chỉ cảm thấy thỏa mãn với chính họ qua sự thành công và thành tích đạt được. Người sao kim có những giá trị khác.
Họ đánh giá cao tình yêu, sự giao tiếp, sắc đẹp và những mối quan hệ. Họ ý thức bản thân qua cảm xúc và khích lệ người khác.
Họ thỏa mãn với sự chia sẻ và nâng đỡ.”




“Mỗi ngày có hàng triệu người đi tìm một người yêu lý tưởng. Mỗi năm có hàng triệu đôi bạn lấy nhau trong tình yêu nồng thắm, sau đó chia tay trong đau khổ.
Thật ra rất ít người có khả năng gìn giữ tình yêu.
Nhưng điều đó không có nghĩa là không thể.
Khi chàng và nàng tôn trọng và chấp nhận những dị biệt của nhau thì tình yêu có cơ hội thăng hoa”




Và cuối cùng bạn là người Ki tô hữu bạn nên hằng ngày cầu nguyện cùng Thiên Chúa để Ngài soi sáng cho bạn nhận biết được ơn kêu gọi của Ngài.
Nếu Ngài chọn bạn trong vai trò người vợ hoặc người chồng trong cuộc sống gia đình, bạn hãy xin Ngài hãy luôn hiện diện và đồng hành cùng bạn.
Xin Ngài cho bạn biết sẵn sàng đón nhận người bạn đời mà Ngài ban cho bạn, và những đứa con mà Ngai tặng cho bạn. Xin Ngài giúp bạn làm cho “ Danh Ngài cả sáng, nước Ngài trị đến” trong gia đình tương lai của bạn.




Khi bạn đã chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng, bạn sẽ cảm thấy vững tin hơn khi bước vào cuộc sống lứa đôi. Nếu một mai nếu hôn nhân bạn có gặp sóng gió, tôi tin bạn sẽ biết cách vượt qua vì mọi việc đã được bạn chuẩn bị ngay từ ban đầu.

Những Vần Thơ Vui


















> em noí răng` em thich' hoa hông`..
> để hợp em tinh' cuả muà đông..
> say mê tinh` aí trong trung thuỷ..
> vưà thâm', vưà buì, khoỉ mât' công..
> bơỉ thế anh mua cả một xẹ.
> đem về tặng đó, để em mê.
> cho anh tí tinh? tinh` em noí..
> cung~ đủ lam` anh miệng cươì toẹ.
> ai ngờ bông đên' ngỏ em tôị.
> đã thâý đông' chum` bông khac' rôì..
> em chơi caí lôí trò nhanh căng?..
> ai tơí lẹ hơn, sẽ có hơì..


thôi thế nhin` bông mât' cả lơì.
giận minh` chạy chậm tại xe Hư
chăng? nhẻ em chơi trò hai mặt..
mặt hưá vơí anh, hưá vơí ngươì..
> > h`h..hehej/k.


> ******************


> Tại anh ngu ngốc bỏ tiền mua
> Hay anh show off tiền dư thừa
> Một đóa hồng tươi thôi cũng đu?
> Nói lên vạn ý lời Lamour ...
Opps how to spell it forget rùi :)


> Bây giờ tiền mất cho anh chừa
> Bỏ tật ra oai làm công tư?
> Ta đây cũng biết chơi bông hỉ :)
> Tiền mất tình thua đáng đời chưa ...

kekekke j/k

Ngày thơ nhõ bé

Ta nhớ quá,những ngày thơ,tháng cũ.
Thà ngắm nhìn,những lọn tóc nguòi yêu.
Sao thỡm quá.những lòi yêu rất thẹn.
Dẫn ta vào lạc. lõng giữa trân` gian.
Rôì từ đó , với bao là tiêc tuỡng.
Khẽ lặng. ngưòi,hóa kíêp,đợi chờ ai ???
ta hiêu rôì hõi giòng sông nhõ bé.
sống là thế.
sống là chờ trong giấc mộng!!!
bao giấc mộng,tan loãng cõi lòng ta!!!
thôi,thôi nhé,trò chỡi đan áo mông.
Chờ môt nguòi con gái,lúc rạng đông.
Khẻ miển cừòi khi thấy bóng xuân sang.
cho ta xin thóang chốc thanh bình.
Gỉã biệt nhé những ngày thơ nhõ bé.

kiếm tim tuơi



Một trái tim khộ..Một trái tim Tuơị..
Trái tim khô đã nhiều lần...
Nhiều lần chạy kiếm tim tuơi.

Vì Sao? DKV






Cuộc đời ,
ảo vọng
hư vô

Ta đến,
với đôi bàn tay trắng.

Ra đi,
mang theo được những gì ?
một linh hồn ?
một thể xác ?
nỗi sầu bi ?

Nhưng,
thôi đành chấp nhận
Cuộc đời là thế
phủ phàng
cay đắng
đau thương ...

Ôi ! quá mong manh
Ôi ! quá bi ai
Mong manh cuộc đời !
Một cõi bi ai !

DKV











Duyen

Trân` thế trớ triêu muì tuc. luy.
Văn Chương phân giảỉ ý tâm tuỳ
Đang' hành` trong thưc' duyên tâm` tiên'
Thanh tịnh. binh` tâm tự xet' suy
Xet' xem thanh truơc. chuyên? ghi
Đơì là tam. cảnh Trường` thi cuả hồn
Binh` tâm giaỉ nghiêp. ôn tôn`
Tay không làm` đích tâm thì cảm an
Thanh thanh nhè nhẹ, vui ban`
Con đuờng chanh' giac' là đàng thưc' tâm
Thưc. hanh` chơn lý truy tâm`
Đên' nơi thưc' giac' chẳng lâm` đường` đi
Xac' thân sẳn có hôp. thì
Nằm` trong kich' đông. Chuyên ghi tiên' lân`
Trong đơì có đaọ xet' phân
Tinh` duyên taí ngộ ân cân` dưng. xây
Chàng` nàng` cảm mên' thơ ngay
Học xong baì học. kiêp' nâỳ là xong
Chẳng còn` trong uơt' ngoaì mong
Tự do khai triển môt. vong` tự tu
Thuơng cha quý mẹ đap' bù
Tâm yeu muôn loaị trùng tu đơì đơì
Tham thiên` thưc' giac' hôp. thơì
Đên' nơi tột. đỉnh tự rơì tham sân

photos


http://www43.tok2.com/home/sun/2005-4/frameset-2005-4.html

HCM- Phan Thiết PHAN THIẾT-HÒN RƠM

Chương Trình Du Lịch - Trung Tâm Ngoại Ngữ Khôi Minh

PHAN THIẾT-HÒN RƠM
(2 ngày 1 đêm)
Khởi hành 10/8 – 11/8

Ngày 1: HCM- Phan Thiết

04h 00: Tập chung tại TTNN KHÔI MINH – 95 Lê Quốc Hưng, P 12, Q 4.
04h 30: Xe công ty Du lịch Đất Phương Nam đón du khách tại điểm hẹn. Khởi hành đi Phan Thiết tham quan thành phố Biển mộng mơ.

06h00: Du khách sẽ dùng điểm tâm tại Ngã Ba Dầu Giây- Nhà hàng Hưng Phát.
06h 45: Tiếp tục hành trình. Trên đường đi du khách sẽ được Hướng Dẫn Viên giới thiệu về Văn hoá, lịch sử từng vùng đất mà du khách đi qua và đoàn sẽ cùng Hướng Dẫn Viên tham gia một số trò chơi sinh hoạt tập thể rất vui nhộn và hào hứng.

09h15: Đoàn đến Phan Thiết
09h 30: Tắm biển Đồi Dương

11h 00: Đoàn dùng cơm trưa tại Nhà Hàng. Sau đó,đoàn vào nhận phòng khách sạn nghỉ ngơi.

13h 00: Du khách khởi hành đi Khu Du Lịch Hòn Rơm. Trên đường đi du khách sẽ tham quan Lầu ông Hoàng, Tháp chàm Pôshanư, bãi đá Ông Địa, Rặng Dừa Hàm Tiến,

15h 00: Đoàn đến Khu Du Lịch Hòn Rơm, du khách vào nhận ghế lều tắm biển tự do.

17h 00: Du khách tập chung thu dọn hành lý ra xe, trở về Phan Thiết. Trên đường về đoàn ghé tham quan Suối Hồng và động Cát Bay.

18h30: Đoàn dùng cơm chiều.Tối đốt lửa trại

Ngày 2: TẠM BIỆT TP. PHAN THIẾT

7h00 : Dùng điểm tâm tại nhà hàng khách sạn.

8h00 : Xe đưa du khách ra bãi tắm Đồi Dương (bãi tắm đẹp của TP. Phan Thiết ) du khách tắm biển tự do hoặc đi dạo biển, uống caffe.(tự túc)

10h 30: Trở về khách sạn nghỉ ngơi.

11h 30: Du khách dùng cơm trưa tại Nhà Hàng, làm thủ tục trả phòng. Khởi hành về điểm đón, trên đường về đoàn ghé chợ Phan Thiết mua đặc sản biển

17h 00: Đưa khách về điểm đón-

Chào tạm biệt- Hẹn gặp lại.

Vẫn yêu khi em không là người đẹp nhất







Saigon Ngay 01 Thang 08 Nam 2005

Trong hôn nhân, sắc đẹp có quan trọng không?
Vẫn yêu khi em không là người đẹp nhất

http://www4.dantri.com.vn/tinhyeu-honnhan/2005/8/70234.vip

Tiêu đề bài báo điện tử số ra ngày thứ bảy 4/8/2005.

Vẻ đẹp thể hiện bên ngoài, nó được hầu hết các phụ nữ coi trọng bởi họ biết đó là vũ khí để lôi cuốn và thu hút phái mạnh ngay từ lần tiếp xúc đầu tiên.


Nhưng một người phụ nữ đẹp không chỉ thể hiện qua hình thức bên ngoài mà còn biểu hiện qua phẩm cách và năng lực bên trong hay còn gọi là cái duyên, cái nết.

Ông bà ta xưa định nghĩa người phụ nữ đẹp thể hiện qua : công, dung, ngôn,hạnh.
o-Công: sự khéo léo trong công việc;
o-Dung: diện mạo của người phụ nữ;
o-Ngôn: lời nói thốt ra từ cửa miệng;
o-Hạnh: đạo đức, tiết hạnh trong cuộc sống


Đó là năm thước đo chuẩn mực đánh giá một người phụ nữ đẹp.


Ngày nay, với những phương tiện kỹ thuật hiện đại, và những bước nhảy vọt của công nghệ y học, con người có thể biến đổi từ xấu thành đẹp chỉ cần vài sự khéo léo từ bàn tay bác sĩ thẩm mỹ.


Như vậy vẻ đẹp của người phụ nữ bên ngoài chỉ tồn tại nhất thời qua thời gian rồi cũng phai tàn. Một phụ nữ U 40 , 50 không thể mong muốn mình có làn da trắng hồng như những cô gái trẻ đôi mươi.


Nếu họ muốn nhờ sự can thiệp của y học để biến chuyển nhan sắc bên ngoài thì vẫn là chuyện nhất thời rồi sẽ qua. Ai nói phụ nữ tứ tuần là xấu, ai bảo bà lão già 60 là không đẹp…theo tôi tất cả đều có vẻ đẹp theo lứa tuổi của mình.


Các nhà nhiếp ảnh nổi tiếng thỉnh thỏang chụp các bà già tám mươi và không quên chú thích cho hình của mình” vẻ đẹp tuổi thất thập cổ lai hy” là gì. Vậy các bạn nữ các bạn có cần quan trọng sắc đẹp của mình không khi người yêu bạn hoặc chồng bạn bảo rằng “ vẫn yêu em khi em không là người đẹp”???


Không đẹp bên ngoài người tình vẫn yêu bạn, nhưng nếu tâm hồn bạn không đẹp thì dù bạn có là hoa hậu, bạn vẫn chẳng được yêu. Cuộc sống với bao bộn bề lo toan.

Cuộc sống với bao khó khăn chồng chất.

Mưu sinh hằng ngày với: cơm, áo, gạo, tiền khiến con người bạn dù nam hay nữ tính tình trở nên khô khan, biến con người thành những kẻ thô lỗ cọc cằn nếu bạn không có tâm hồn đẹp.
Một nét duyên bạn gái khi e thẹn nói lời cảm ơn.
Một hành động cúi chào bẽn lẽn đủ làm “nghiêng nước, nghiêng thành” các đấng mày râu.

Cái duyên, cái nết không phải nhìn mà thấy, không bác sĩ nào có thể tạo nên hay sửa đổi được mà phải chính sự nỗ lực tự thân mỗi người phải hằng ngày nuôi dưỡng mà có.

Cái nết, cái duyên thể hiện qua cách ăn, nói giao tiếp hằng ngày.

Cổ nhân ta vẫn dạy”
Trai khôn kiếm vợ chợ đông, Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân”

Một cô người mẫu đẹp trên sàn diễn mọi người trầm trồ thán phục vẻ đẹp của cô, ngay cả tôi phải thốt lên “ đến tôi là phụ nữ còn mê nói gì đến đàn ông” nhưng sau sàn diễn, lời nói thô tục, cữ chỉ khiếm nhã, lời nhận xét hoặc thóa mạ đồng nghiệp làm tôi thấy tiếc cho lời khen của mình.


Thử hỏi vẻ đẹp như vậy bạn có cho là đẹp không? Ngược lại một chị lao công trong trường, với cử chỉ nhỏ nhẹ gật đầu chào, lời xã giao hỏi thăm, tôi thấy chị thật dễ thương và gần gũi.Sắc đẹp cần cho người phụ nữ khi đã có gia đình, nhưng không quan trọng bằng đức tính cao đẹp biết hy sinh cho chồng con.

Nhà thơ Tú Xương chẵng đã “thương vơ” đem nàng vào thơ mặc dù ra đường “thiếp đã năm con cùng chàng” đó sao: Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng.Lặn lội thân cò khi quảng vắng,Eo xèo mặt nước buổi đò đông….”


Người phụ nữ ngày xưa vất vả tần tảo bảo vệ hạnh phúc cho chồng con, họ không có điều kiện để chăm lo nhan sắc nhưng vẫn được chồng yêu, chồng thương
o-Lỗ mũi thì tám gánh lông,
o-Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho,
o-Đêm về thì gáy o o,
o-Chồng yêu chồng bảo gáy cho vui nhà.

Trên đầu những rác cùng rơm,Chồng yêu chồng bảo, hoa thơm rắc đầu”

Phụ nữ ngày nay được hổ trợ rất nhiều từ khoa học đến kỹ thuật, từ vật chất lẫn tinh thần. Có nhiều điều kiện để tự chăm sóc cho bản thân ngày càng hấp dẫn và thu hút hơn với người bạn đời của mình.

Có nhiều cơ hội để mở mang kiến thức hơn qua báo chí, phim ảnh, internet……nhằm nâng cao khả năng nhận thức giúp đời sống hôn nhân thêm tốt hơn.

Vây phụ nữ chúng ta ngày càng đẹp hơn cùng với kiến thức tốt hơn và chăm sóc gia đình chuẩn mực hơn.
Như vậy người phụ nữ sống trong xa hội xưa hay nay đều được xem như cái nôi nuôi dưỡng tình yêu và hạnh phúc gia đình.
Chính vai trò quan trọng này khiến người phụ nữ phải biết hài hoà giữa cái đẹp bên ngoài và cái đẹp bên trong.


Sức khỏe có ảnh hưởng đến đời sống hôn nhân không? Sức khoẻ là vàng “ có sức người sỏi đá cũng thành cơm”
Một con người có sức khỏe là người đủ năng lực làm việc tạo ra được vật chất nuôi sống bản thân và một tinh thần minh mẫn để có thể điều khiển lý trí hành động theo đúng chuẩn mực đạo đức trong xa hội.


Mỗi người đều cần có sức khỏe trong cuộc sống.
Đối với hôn nhân, sức khỏe đóng vai trò quan trọng.
Vợ chồng ngoài việc chăm sóc và chia sẻ với nhau niềm vui, nỗi buồn họ còn phải chia sẻ cả về công việc gia đình và trách nhiệm giáo dục con cái.

Tất cả điều này đòi hỏi phải có sức khỏe tốt, một gia đình khi chồng về đến nhà thấy vợ bệnh hoạn, con cái không được mẹ chăm sóc cẩn thận, gia đình dễ đi đến tan vỡ nếu không biết cùng sát cánh bên nhau, nâng đỡ, ủi an nhau..người đàn ông dễ chán nản và sa vào những thú vui khác nhằm quên đi nỗi chán chường.


Những đứa con sẽ dễ hư hỏng vì không có bàn tay chăm sóc chu đáo và những lời bảo ban của me.
Ngược lại một người chồng bệnh hoạn dễ tự ti, mặc cảm luôn cáu gắt và làm cho không khí trong gia đình luôn căng thẳng, những đứa con sợ cha không dám đến gần, những người vợ lầm lũi phục vụ chồng trong nổi hiu quạnh cam chịu.

Tất cả viễn cảnh đó dẫn đến gia đình không còn là tổ ấm cho con cái, dễ đổ vỡ và bất hạnh.
Để tránh những trường hợp đó, các bạn trẻ khi chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân, mỗi người chúng ta nên sống thật nghiêm túc với lối sống tốt đẹp của người trẻ.


Người trẻ có lòng nhiệt thành, sẵn sàng phục vụ và đương đầu với khó khăn. Người trẻ có lòng hăng say đam mê học hỏi giữ cho được một cơ thể cường tráng và một tinh thần lành mạnh yêu thương chan hoà.

Đến khi các bạn tiến đến hôn nhân, các bạn tự tin mình có đủ sức để làm một người “đàn ông xây nhà”“ đàn bà xây tổ ấm”.

Sức khoẻ giúp bạn sống một cuộc sống tươi đẹp và cho bạn đủ nghị lực vượt qua khó khăn trong cuộc sống.Khi bạn có sức khoẻ bạn sẽ có những đứa con đáng yêu đó là kết qủa tình yêu cao đẹp trong cuộc sống hôn nhân của bạn.

Bạn đủ sức khỏe để nuôi dưỡng và chăm sóc con bạn, dạy dỗ chúng thành người có ích cho xã hội.


Sức khỏe quan trọng trong đời sống hôn nhân, vậy nếu khi bạn đã kết hôn mà vợ hoặc chồng bạn không còn đủ sức để chia sẻ trách nhiệm gia đình với bạn, vợ hoặc chồng bạn lâm bệnh, bạn sẽ làm sao?? Li dị hoặc bỏ mặc người đó???


Đạo công giáo không cho phép bạn li di, bạn sống với người bạn đời của bạn trong trách nhiệm nằng nề với những đạo luật trói buộc đời bạn sao??

Trước hết bạn hãy cầu nguyện cùng Thiên Chúa, Người sẽ mở lối cho bạn vì Người đã nói “ Ai xin thì sẽ được” chẵng lẽ bạn tin Columbus tìm ra Châu Mỹ khi ai đó hỏi bạn “Ai là người tìm ra Châu Mỹ”? mà bạn có tận mắt nhìn thấy ông ta đâu, nhưng ban vẫn tin, cả thế giới này đếu tin như vậy, có ai trên trái đất này phản đối đâu, vậy mà Thiên Chúa là Chúa của bạn, Ngài ban cho bạn những lời hằng sống bạn lại chẵng tin Ngài sao!!! “ hãy phó mặc mọi việc cho Ngài” và bạn hãy thi hành lời bạn đã Tuyên hứa cùng với người trăm năm của bạn trước sự chứng dám của linh mục chủ sự và cộng đoàn, cùng sự chúc phúc của Thiên Chuá trong ngày lễ kết hôn “ lúc hoạn nạn cũng như lúc gian nan sẽ sống chung thủy với nhau suốt đời” tôi tin lúc đó bạn sống có Chúa trong gia đình bạn thì không có bệnh tật nào có thể làm cho gia đình bạn tan nát.


Nếu bạn chưa kết hôn, nhưng bạn hoặc người yêu bạn mắc những chứng bênh nan y, điều nhân đạo nhất đó là hãy nói lời chia tay với người bạn của bạn để làm giảm nhẹ nỗi đau của mỗi người vì bệnh tật không đem lại hạnh phúc cho bạn.

Đừng quên cầu nguyện cùng Thiên Chúa, vì không có chuyện gì là Ngài không làm được.

Sức khỏe đem lại cho bạn niềm vui sống, cuộc sống gia đình cần có sự đóng góp của cả hai..bạn nên duy trì một sức khỏe tốt và sống cuộc sống lành mạnh.
Thiên Chúa sẽ luôn đồng hành cùng gia đình bạn.